Trường phái

Mặt gỡ mặt nạ 06. 10. 14 - 6:10 am

Daphné Bestard từ tạp chí Mỹ thuật Pháp số T2 năm 2014, Minh Gia dịch

.

Autoportraits 1965/1 của Roman Opalka :
“Cái mà tôi gọi là chân dung tự họa được làm từ hàng ngìn ngày làm việc. Mỗi bức tương ứng với số lượng và những lúc chính xác khi tôi ngừng vẽ sau một buổi làm việc.” Ông đã bắt đầu tác phẩm của mình năm 1965 và kết thúc khi ông mất ngày 6/8/2011.

Thế kỷ 20 có lý do để bị nói như thế. Từ những gương mặt tan nát thời chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914-1918) cho tới sự kinh hòang thời Đức quốc xã, gương mặt con người đã bị mất mặt (le visage a perdu la face). Và ngay cả khi thể hiện nó, các nghệ sĩ cũng không ngừng làm gương mặt biến dạng, hoặc cố gắng giải mã, hoặc che nó đi… nhằm cho thấy rõ hơn sự nghèo nàn và điên rồ của thời hiện đại.
 
Gương mặt người là một quyền lực rỗng, một lĩnh vực chết chóc“, thậm chí nó “còn chưa tìm thấy chính khuôn mặt mình” và “chính họa sĩ sẽ là người cho nó khuôn mặt“. Những tuyên bố nổi tiếng của Antonin Artaud đi kèm với triển lãm về chân dung của ông tại galerie Pierre Loeb mùa hè năm 1947 như đưa ra một thách thức khổng lồ đối với cộng đồng họa sĩ phương Tây trong sự hỗn loạn của thế kỷ 20.

Chân dung tự họa của Claire Tabouret : 2012
Ưa thích chủ đề chân dung, Claire Tabouret, nữ họa sĩ trẻ đầy triển vọng, đã chọn vẽ mực tàu để thể hiện các nhân vật và những bối cảnh “không chui vào rọ” , cho thấy những “lúc chuyển đổi và mơ hồ”.

Được Ciceron định nghĩa như một “tấm gương của tâm hồn“, hay như nhà triết học Emmanuel Levinas nói thì nó chính là “cửa ngõ đầu tiên của tính khác biệt” (premier acces à l’alterité), gương mặt người vừa là chân dung, vừa là tự họa, vừa là hình ảnh của vô thức, của ta của người, là hiện thân toàn diện cho một xã hội. Nó chưa từng được đề cập và đặt nhiều câu hỏi đến thế như ở thời đại này, nơi các nhà avant-gardes nối tiếp nhau với một tốc độ chóng mặt. Sau thế kỷ 19, khi gương mặt đang ngự trị trong hội họa châu Âu, và đón nhận tất cả những vinh quang, thì từ năm 1905, một đám Dã thú ở đâu, do Matisse dẫn đầu, tấn công vào gương mặt, làm nó ngập trong màu sắc. Rồi đến lượt phong trào lập thể, Braque và Picasso tiên phong, đập nó ra, giải mã, mổ xẻ từng lớp, phá vỡ các qui tắc đối xứng và phối cảnh.

Emmental Head của Gilles Barbier : 2003
Từ hai chục năm nay, Gilles Barbier đổ khuôn gương mặt ông bằng sáp để nói về sự lệch tâm, sự hư hỏng và ngu ngốc của thế giới.

Gương mặt đã mất mặt ! (Le visage perd la face).  

Chưa xong đâu, đó mới chỉ là khởi đầu.

Ở mỗi một phong trào hội họa mới, gương mặt người lại bị méo đi, xấu đi,  kỳ cục hơn..

Với hình ảnh kiểu dada, Raoul Hausmann, người cho ra đời cuốn L’Esprit de notre temps (Tinh thần thời đại chúng ta), đã làm một hình nộm cô thợ tóc bằng gỗ, và tuyên bố thẳng tọet:

Từ lâu rồi, tôi đã phát hiện thấy con người không có cá tính và gương mặt họ chỉ là một hình ảnh do thợ làm tóc tạo ra“.

Bức ảnh Vô đề (Sans titre) của Robert Mapplethorpe: 1980.
Ai đang nhìn ai? Với một chiếc kính lúp bằng da, nhân vật trong cảnh này ẩn mình một cách đặc biệt, có vẻ như muốn đánh tráo vai trò và mời người xem tự vấn về cách chúng ta nhìn, thấy, ngắm hay phán xét khuôn mặt ngừoi khác. Robert biết cách thách thức con mắt chúng ta và cho thấy rằng ông là bậc thầy không thể chối cãi trong phong cách đen-trắng .

Trong xu hướng phản đối nhóm Dada, các nhà siêu thực kéo lê gương mặt trong những khúc quanh của vô thức, của mộng mị, của ảo tưởng, nơi cái chết quanh quẩn nhăm nhe.

Magritte, người đầu tiên nhấm nháp sự thích thú tinh quái khi vẽ một gương mặt bị giấu đi, hoặc phủ vải hoặc che bằng quả táo. Ông đã khiến gương mặt trở thành một thứ vừa gây thích thú vừa gây lo sợ.

Cặp tình nhân (Les Amants) của Margritte René: chất liệu sơn dầu , vẽ năm 1928 .
Tình yêu liệu có mạnh tới mức khiến vẻ bề ngoài không còn quan trọng mấy hay không ? Hay ngược lại, hình ảnh này gợi ý rằng họ yêu nhau mà không biết gì về nhau cả? Magritte không trả lời cho cái cảnh bí ẩn khi ông vẽ những khuôn mặt bị tấm vải che đi, nhử cho người xem tự đặt câu hỏi.

Trong khi Magritte, Breton và các bạn hữu giải phóng nghệ thuật khỏi sự chấp nhận các dạng tái tạo ảo tưởng và những ý nghĩa đơn phương, các họa sĩ theo chủ nghĩa Biểu hiện Đức lại tóm  gương mặt để biếm họa nó một cách hơi cực đoan nhằm lột tả những góc tối tăm, sự điên cuồng, và sự nghèo nàn của một xã hội đang suy tàn. Những khuôn mặt tư sản, đĩ điếm, lính tráng, những khuôn mặt biến dạng, sống sót sau Chiến tranh Thế Giới thứ nhất, được họa sĩ Otto Dix hay George Grosz khắc họa, là nhân chứng ném vào mặt người xem sự thực tàn nhẫn của nó. Những tác phẩm của họ thể hiện một thực tế bi kịch, thực tế của chiến tranh, cái thực tế gây khó cho cả khái niệm về khuôn mặt. Các sử gia và các nhà phê bình nghệ thuật đã nhiều lần nhấn mạnh: với hai cuộc xung đột lớn trên thế giới, sự tàn phá của cuộc Đại Chiến và nỗi ghê tởm kinh hoàng đối với Shoah (Holocaust), các nghệ sĩ đã phải đối mặt với sự bất lực khi thể hiện một gương mặt đã mất hoàn toàn tính người. Họ đắm mình trong một nhiệm vụ đầy thất vọng và ám ảnh về một gương mặt “thật” mà Artaud đã nói. Đó là trường hợp của Giacometti, quẫn trí, thú nhận đã sững sờ như thế nào khi ông bắt đầu cảm nhận một cách độc lập những cái đầu trên cơ thể người, như một vật nổi lên trong không gian. Năm 1934, ông đã tự vấn: Một cái đầu là một cái gì? Những “cấu trúc bên trong” tạo nên “sự thất vọng của một gương mặt” đã cho ông câu trả lời nhiều năm sau đó, qua một bản thảo mà nhà triết học Georges Didi-Huberman gửi đến ông. 

Shoah của Wilhelm Sasnal
Từ năm 2000, họa sĩ Ba Lan (sinh năm 1972) đã phản ánh về Holocauste qua những hình ảnh trong phim tài liệu Shoah của Claude Lanzmann. Ở đây, ông đã chọn cách giới thiệu một gương mặt gần như vô danh của nữ thông dịch viên, nhân vật mấu chốt mà nếu thiếu nó, các nhà làm phim sẽ không thể nào thu thập được những chứng cớ về tội ác diệt chủng Do thái.

Đối diện với sự thất vọng về gương mặt người, sự thất bại khi thể hiện nó, các họa sĩ đôi khi đã phản ứng một cách rốt ráo, bạo liệt. Klee và Dubuffet đã làm các khuôn mặt chảy thành những hình dạng thô thiển khi cố gắng nắm bắt bản chất của nó. Trong khi với Munch và Bacon, gương mặt lại căng thẳng vì đau đớn. Tới cuối nửa đầu thế kỷ 20, gương mặt dường như đã chịu đựng tất cả những sự xúc phạm kinh khủng nhất, tới mức có lẽ thiếu mỗi việc là biến mịa  đi cho xong, hoặc… phải tái sinh.

Thực vậy, không phải để giải mã  mà để tái tạo. Sử gia Andrea Beyer tóm tắt trong cuốn sách của ông L’Art du portrait (Nghệ thuật chân dung).

Lucian Freud hay Avigdor Arikha trong chiến dịch “cuộc trở về vĩ đại với gương mặt” mà Jean Clair đã nói đến trong một bài viết năm 2011: “Người ta được nhận biết, không phải nhờ vào việc đánh số thứ tự như những con vật, mà nhờ vào gương mặt họ, những nét riêng của họ. Nhưng đặt tên cho họ, vẽ họ từng chút một, biến họ thành một nhân vật, chính là kéo họ khỏi cái chết“.  Với những bức họa hiện thực và thô, Freud đã nâng một tầm mới trong việc vẽ chân dung trong khi vẫn giữ lại một số nét truyền thống.

“Reflet avec deux enfants” (hay chân dung tự họa của Lucian Freud) – Sơn dầu – 1965.
Tôi muốn hội họa như da thịt” – Lucian Freud thường thích nhắc đi nhắc lại như thế. Họa sĩ nổi tiếng về cách xử lý ám ảnh chân dung (hoặc chân dung tự họa) đuợc thực hiện lặng lẽ và kín đáo trong xuởng vẽ của ông. Góc nhìn của họa sĩ hiếm khi cùng tầm với người xem. Nó thường thấp hơn hoặc có vẻ như đang ngiá chúng ta từ phía trên, trông như ông muốn giữ khỏang cách.

Các họa sĩ khác thì mượn một cách thức triệt để khác, bằng cách bắt các thẩm mỹ của văn hóa đại chúng, một lần nữa, phải phá vỡ những ký hiệu chung để tái tạo lại gương mặt. Như là Andy Warhol, đã trở nên nổi tiếng, nếu không muốn nói là hơn cả rất nhiều những sao bất tử nhờ những bản in sặc sỡ của ông. Có cả những họa sĩ, để đương đầu với những khó khăn khi họa gương mặt, đã chọn cách chế nhạo, mỉa mai, như nhà phê bình mỹ thuật Dominique Baqué nhấn mạnh trong cuốn Visages – Du masque grec à la greffe du visage (Gương mặt – từ mặt nạ Hy lạp cho tới sự ghép mặt). Rồi Bruce Nauman, diễn với chính gương mặt mình khi nhăn các kiểu, hay Cindy Sherman với các chân dung tự họa đầy vẻ lo lắng, rồi cả Orlan nữa.. Trong các buổi trình diễn nghệ thuật vào đầu những năm 90, nữ nghệ sĩ đã tái tạo lại gương mặt mình thông qua phẫu thuật thẩm mỹ, khai thác một hiện tượng mà sau này ngày càng trở nên mốt. Bởi dù phẫu thuật hồi phục chức năng hay phẫu thuật thẩm mỹ, thì các kỹ thuật cấy, ghép, nhân bản và cả các phần mềm đủ loại cho phép làm thăng hoa hiện thực, đều cho ra một gương mặt lý tưởng đều đều, trẻ mãi không già mà media thường hay đăng tải.

Vô đề số 225 (Untitled # 225) của Cindy Sherman
Chả ngạc nhiên khi bức Madone ngực trần này được bày trong triển lãm “Tous cannibales” (Toàn kẻ ăn thịt người) năm 2011 ở Maison Rouge. Lấy cảm hứng từ các bậc thầy cổ điển (Jean Fouquet, Botticelli, Raphael), Cindy Sherman xem lại chủ đề cho bú dưới một góc nhìn hãi hùng và đáng sợ.

Ngược với làn sóng những hình ảnh sạch sẽ khiến đám đông kinh ngạc, có những gương mặt thật mà một số nhiếp ảnh gia như Philippe Bazin tiết lộ. Trong những năm 80, ông đã tập trung vào gương mặt những người già, những người bị cho là “điên” , những người sống bên lề xã hội, nhằm “cho thấy  hình ảnh của những người  bị lọai  dưới cái nhìn của đám đông“, ông giải thích. Khi ngắm các tác phẩm của ông, có lẽ khó mà phủ nhận rằng nhiếp ảnh đã mở ra những viễn cảnh mới cho chân dung “tâm lý”. Nó cũng cho phép tiếp cận sát hơn những cảm xúc và thực tế con người. Và khi đối diện với cái chết, Roman Opalka đã thể hiện trong series ảnh 1965 khi ông tự chụp bản thân, từng năm một, phơi ra ánh sáng những dấu vết tàn nhẫn của thời gian – một cách để giải quyết phần nào đó sự bí ẩn vĩnh cửu của gương mặt, nơi sự sáng tạo (dù còn xa) cũng chưa bao giờ hoàn toàn từ bỏ.

Thị hiếu nhiếp ảnh cũng đã bổ sung cho hội họa, như trường hợp họa sĩ Lynette Yiadom-Boakye, khi những người mẫu hư cấu được sinh ra hoàn tòan từ sự tưởng tượng của bà và phần lớn từ ngẫu hứng. Hoặc Michael Borremans, với những nhân vật lạ lùng, ông tìm cách “tạo ra một không khí vượt thời gian, một không gian nơi thời gian đã bị xóa“.

Ngày nay, sau một đoạn đường dài hun hút, gương mặt đã tìm lại đuợc, không phải nụ cười thì cũng như trăm hoa đua nở.

Với kiểu cười đáng sợ trong tác phẩm của Yue Minjun, cái nhìn lặng ngắt trong tác phẩm của Gerhard Richter,  kiểu tóc của đám đô thị trong các tác phẩm của Jitish Kallat, hay phủ chữ lên mặt như Shirin Neshat…, gương mặt vừa muốn có tính cá biệt vừa muốn có tính phổ quát.

Gold fish (Cá vàng) của Yue Minjun : 1993, sơn dầu.
Cười như thần kinh, kiểu cười ngoài mặt, căng thẳng và có tính chức năng: người ta không biết trông đợi gì với những nhân vật kỳ cục của Yue Minjun, nhưng nụ cười mà họa sĩ khắc họa có vẻ như mỉa mai nhiều hơn là giễu cợt. Với những bức tranh nhiều màu sắc, họa sĩ cho thấy sự vỡ mộng về một đất nước Trung Quốc ngày nay và về những điều kiện con người nói chung.

 

Vô đề, series Métisse II của Valerie Belin
Búp bê bằng sáp, hay bằng da bằng thịt ?
Với ánh nhìn trống rỗng, nét mặt đều đều, trang điểm hòan hảo, cái gương mặt không tì vết này giống như một biểu tượng, không còn vẻ riêng biệt và con người nữa. Những khát khao của chúng ta về sự hoàn hảo có lẽ chỉ là một ảo tưởng?

 

Speechless (Không nói nên lời) của Shirin Neshat : 1996
Bình thản và quả quyết, thường đựoc chụp khá gần như ở đây, những gương mặt trong sêri ảnh Women of Allah của Shirin Neshat được phủ bằng thư pháp. Đầy sức mạnh cảm xúc, chúng kể về đất nước Iran sau cuộc cách mạng Khomeiny cũng như số phận cá nhân của từng người .

 *

Tên nguyên gốc của bài: “Le visage tombe le masque)

Ý kiến - Thảo luận

(Đề nghị gõ chữ tiếng Việt có dấu và không viết tắt)

“Nói chuyện gì, khi nói chuyện tình?”

Vi Tường Vi (N°9 - Nhóm One Tree)

Tìm kiếm

Tiêu đề
Nội dung
Tác giả