|
|
|
|||||||||||||
Bàn luậnKhi nào có tác phẩm đa giác quan của người Việt? 04. 04. 13 - 12:40 amBùi Trà MyTrường triết học nghệ thuật và mỹ học1 phương Tây nhiều thế kỷ nay vẫn dành sự tôn thờ tuyệt đối cho hai năng lực cảm thụ từ xa là thị giác và thính giác. Lịch sử nghệ thuật ghi nhận các tác phẩm hội họa, điêu khắc, giao hưởng thính phòng, nhạc kịch,… đều đòi hỏi năng lực cảm và hiểu bằng hai giác quan đó. Cách đây nhiều năm, khi cảm thấy vô cùng bất lực trong việc dùng ngôn ngữ và hình ảnh để diễn đạt cái mà mình đang trải nghiệm (ví dụ như mùi hương ngai ngái mát lành của đám cây lá trước vườn nhà và mướt mát mơn trớn của cơn gió sớm luồn nhẹ vào tóc tai), tôi cũng bất chợt tự hỏi liệu có một phương tiện nào đủ khả năng ghi lại những cảm giác ấy của mình hay không? Cho tới gần đây, suy nghĩ đó lại quay trở lại khi tôi có cơ hội đọc và nghe Laura U. Marks nói về văn hóa đa giác quan. Đa phương tiện, đa chiều là những thuật ngữ đã được nhắc nhiều thành quen trên truyền thông Việt Nam. Tuy nhiên, đa giác quan dù được chúng ta sử dụng 24/7 trong mọi hoạt động của đời sống lại chưa được mấy ai đề cập. Tương tự như vậy, các tác phẩm nghệ thuật kích thích năng lực thị giác, thính giác cũng đã được phổ cập tới tầm đại chúng, còn những giác quan khác như ngửi, nếm, chạm thì lại có phần hạn chế.
Trong tiểu luận Thinking Multisensory Culture (2008)2, Laura U. Marks đã đặt ra câu hỏi về sự bất bình đẳng trong trật tự giác quan này, trong cả lịch sử nghệ thuật, mỹ học, cũng như trong ngành nghiên cứu văn hóa-nghệ thuật đương đại. Trong khi chúng ta đang nỗ lực đại chúng hóa nghệ thuật và phá bỏ những rào cản mang tính giai cấp và khuôn mẫu thì việc tập trung sự chú ý vào nghệ thuật thị giác/thính giác lại vô hình chung tạo ra một kiểu phân hóa giai cấp khác. Đứng từ khía cạnh cảm thụ nghệ thuật, tác giả đề xuất tiếp cận một tác phẩm bằng nhiều loại giác quan, chứ không chỉ dựa vào năng lực nghe và thấy. Bà viết, ngoài việc được sử dụng như một loại hàng hóa trong xã hội tiêu dùng hiện đại, các trải nghiệm về mùi, vị, xúc giác vẫn chưa thực sự được đối xử một cách đúng đắn, như một kênh tri nhận và đánh giá. Trên thực tế, đứng giữa lằn ranh mong manh của sự khả tri và khả nhận, các giác quan gần gũi với đời sống hàng ngày này có thể là phương tiện hữu hiệu để truyền tải tri thức, cái đẹp, hay thậm chí là đạo đức tới công chúng.
Để củng cố cho nhận định này, Laura U. Marks trong buổi thuyết trình tại Goldsmiths College đưa ra giả thuyết về quá trình cảm thụ nghệ thuật của con người gồm ba pha: Affect – Percept – Concept: – Khi tiếp xúc với một tác phẩm, công chúng thoạt đầu phản ứng bằng những ấn tượng bề nổi, chính là thông qua các năng lực giác quan trời sinh. – Ở pha thứ hai, công chúng bắt đầu liên nối ấn tượng, cảm xúc ban đầu đó với những trải nghiệm cá nhân của bản thân, đây là thời điểm tri giác được hoạt động. – Tới pha cuối cùng, nền tảng học vấn của mỗi cá nhân sẽ liên hệ kết quả của pha tri giác với các khái niệm trừu tượng hơn và đi đến phân tích, thấu hiểu, tự phê bình tác phẩm. Quay trở lại với tính ứng dụng của các giác quan, bởi tính tương tác với cảm xúc và ký ức trong ba pha cảm thụ, một người sẽ hiểu được tác phẩm nhiều nhất nếu sử dụng tối đa giác quan. Bởi thế, một tác phẩm sẽ đạt được hiệu quả biểu đạt cao nhất nếu tác động tối đa tới mọi năng lực cảm giác của con người. Cách thức kỳ diệu này đã bắt đầu được áp dụng trong lĩnh vực giải trí qua loại hình phim 4D, 5D. Tôi hiện đang rất hồ hởi mong được thấy các tác phẩm đa giác quan của nghệ sỹ Việt Nam cũng như cách thức phê bình tác phẩm thông qua năng lực chạm, ngửi,…, trước là để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, sau là hy vọng tạo cung – đáp ứng cầu cho đại chúng. * Chú thích: 1Aesthetics. Thuật ngữ aesthesis được đưa vào lý thuyết triết học tương đối muộn, vào thế kỷ 18, bởi Baumgarten. Aesthetics sau đó được Lessing định nghĩa như một sự kết nối giữa nghệ thuật và các giác quan, tuy nhiên nhấn mạnh chỉ các giác quan bậc cao: thị giác và thính giác. 2Marks, L.U (2008). Thinking Multisensory Culture. Paragraph 31:2, ed Wilson, E. (07/2008): 123-137 * Về Laura U. Marks: Laura U. Marks (Ph.D) hiện đang giảng dạy bộ môn Art and Culture Studies ở trường Nghệ thuật đương đại thuộc Đại Học Simon Fraser. Bà đồng thời tham gia thỉnh giảng ở nhiều nơi và tham gia hoạt động giám tuyển, phê bình, nghiên cứu, biên tập trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật. Các tác phẩm xuất bản tiêu biểu: – Marks, L.U. (1999). The Skin of the Film: Intercultural Cinema, Embodiment, and the Senses. Duke University Press Ý kiến - Thảo luận
22:47
Thursday,4.4.2013
Đăng bởi:
Bùi Trà My
22:47
Thursday,4.4.2013
Đăng bởi:
Bùi Trà My
@ Anh Nguyễn Đình Đăng: Thú thật là em không biết gì về Kant cả, nên đọc phản hồi anh xong phải mò lên thư viện ngay. Không còn cuốn Critique of Judgment nào nhưng em hiện đang đọc một chút của Crawford, D.W (1974). Kant’s Aesthetic Theory, và hoàn toàn đồng ý với anh ạ.
1. Lật lại lịch sử phương Tây một chút thì vào những thế kỷ trước, nghệ thuật được cho là một đặc quyền của tầng lớp trí thức, quý tộc cao cấp trong xã hội. Như Bourdieu đã phân tích trong Distinction: The Social Critique of the Judgment of Taste (1984), đặc quyền này đã hình thành nên một hệ thống chuẩn mực về cái đẹp mà tầng lớp ‘intellectuals’ – trí thức là trung tâm. Bourdieu gọi đó là quyền lực biểu tượng (symbolic power) dựa trên "quyền" sở hữu vốn văn hoá (cultural capital). Nguồn vốn văn hoá này chính là được nhào nặn trong thời kỳ đó. Sự thống trị về ‘quan điểm mỹ học’ và ‘thị hiếu’ này, trên thực tế không chỉ ảnh hưởng đến xã hội phương Tây sau này, mà thậm chí có ảnh hưởng tới cả nghệ thuật của các nước phương Đông, bằng chứng là một tác phẩm (nếu) được sáng tác hoặc phê bình dựa trên các lý thuyết triết học – mỹ học - xã hội học thì em thấy khá nhiều màu sắc của tư tưởng triết học phương Tây. 2. Có một điểm mà có lẽ em chưa làm rõ ở trên bài viết về văn hoá đa giác quan là tính đại chúng của tác phẩm, hay mỹ học đại chúng (‘popular aesthetics’). Chắc tại em đang học truyền thông và xã hội học mà không biết gì về nghệ thuật nên hơi bị ám ảnh về phương diện đại chúng. :D. Các tác giả khi đề xuất một cách hiểu nào đó có lẽ cũng dựa trên bối cảnh đương thời. Kant viết Critique of Taste năm 1790, Bourdieu viết Distinction năm 1979 (1984 là bản dịch tiếng Anh), còn hiện tại đang là bối cảnh năm 2013, khi nghệ thuật đang được đại chúng hoá. Có nghĩa là em đề xuất các tác phẩm bằng cách nào đó phản ánh xã hội và văn hoá một cách tương tác và dễ cảm nhận hơn, còn sự sublime và kỹ thuật thực hiện thì em không biết tí gì. 3. Có một tác phẩm của nghệ sỹ người Pháp tên Orlan dù chỉ được trình diễn dưới dạng documentary nghĩa là thuần tuý thị giác, nhưng lại khiến người xem liên nối tới rất nhiều giác quan, em có định gửi Soi đăng lên minh hoạ nhưng lại ngần ngại vì lúc xem nó em cũng thấy rất “khiếp” ạ. Nhân comment ở đây, em xin gửi kèm theo link trên youtube: http://www.youtube.com/watch?v=no_66MGu0Oo
11:16
Thursday,4.4.2013
Đăng bởi:
Nguyễn Đình Đăng
Trong thẩm mỹ có một khái niệm gọi là sự cao siêu (the sublime) đã được Kant bàn tới trong "Phê phán sự phán xét" (Critique of judgement) (1790).
11:16
Thursday,4.4.2013
Đăng bởi:
Nguyễn Đình Đăng
Trong thẩm mỹ có một khái niệm gọi là sự cao siêu (the sublime) đã được Kant bàn tới trong "Phê phán sự phán xét" (Critique of judgement) (1790). Bài đã đăng
» Xem tiếp... |
|||||||||||||||
|
1. Lật lại lịch sử phương T&
...xem tiếp