Khác

Nghe Phan Việt nói về “Bất hạnh là một tài sản”. Đọc “Chúa ở đâu?” 07. 07. 13 - 12:47 am

 

18h ngày 9. 7 này, tạI L’Espace, Hà Nội, sẽ có một tọa đàm rất hay: “Một mình ở châu Âu hay cuộc hành trình nội tâm dai dẳng”.

Vì sao chưa dự mà đã biết hay? Vì nhân vật chính của tọa đàm là một người rất thú vị, tài năng và vô cùng thông minh: Phan Việt

Là tác giả của các tập truyện ngắn Phù phiếm chuyện (2005), Nước Mỹ, nước Mỹ (2009), tiểu thuyết Tiếng người (2008), Bất hạnh là một tài sản (2013), tốt nghiệp đại học ngoại thương, sau khi lấy bằng tiến sí tại đại học Chicago, Phan Việt hiện là Phó Giáo sư giảng dạy đại học tại Mỹ.

Tọa đàm này, ngoài Phan Việt còn có sự tham gia của các diễn giả:
– Giáo sư Ngô Bảo Châu
– Dịch giả Lâm Vũ Thao
– Biên tập viên Võ Hằng Nga đảm nhiệm vai trò dẫn dắt.

Mời các bạn đọc một truyện ngắn rất hay của Phan Việt, “Chúa ở đâu?” (trong tập “Nước Mỹ, nước Mỹ” – một tập truyện ngắn bạn rất nên có trên giá sách.

*

CHÚA Ở ĐÂU?

Minh họa của Vũ Huyên, (Người Đại biểu Nhân dân)


May đi từ bảy ngày trước. Lần này, May không hề khóc. Mặt nàng bình thản.

– Em không thể sống thế này được. Em phải đi.

Tôi để cho nàng đi. Tôi biết May sẽ quay lại trong vòng một hai ngày, hoặc một tuần. Lâu nhất là một tuần. May là người Mỹ và coi mình là một người Cơ đốc ngoan đạo. Một tuần là khoảng thời gian lâu nhất nàng có thể đi. Nàng đã từng làm thế một lần – gần Giáng Sinh năm ngoái. Lần ấy, chúng tôi cãi nhau to vì tôi đã không “friendly” với những người ở nhà thờ của nàng. Chúng tôi đã đi picnic ở một công viên. Mọi người chuẩn bị đồ ăn, còn tôi ngồi trên ghế xem lũ trẻ chơi bóng. Khi đồ ăn chuẩn bị xong, họ cầu nguyện và chúng tôi ăn. Ăn xong, họ bắt đầu nói chuyện. Một người phụ nữ đứng tuổi kể chuyện Chúa đang giúp chồng bà ta bình phục sau một ca phẫu thuật cắt trĩ. Một người khác tạ ơn Chúa đã hàn gắn quan hệ giữa chị ta với người bố đã bỏ chị ta từ lúc năm tuổi. Một người nói về chuyện nghiện rượu. Đến lượt May, nàng nói rằng nàng tạ ơn Chúa vì đã mang tôi đến. May nói tôi luôn có những câu trả lời rõ ràng về cuộc sống trong khi nàng hay lo lắng viển vông. Nàng nói tôi là cái mỏ neo, là mọi thứ trong cuộc đời nàng; nàng chỉ còn ước một điều là tôi cũng tin Chúa như nàng, để chúng tôi có thể bên nhau cả trên trần thế lẫn khi đã về với nước Chúa.

May nói xong, mọi người đều mỉm cười nhìn tôi. Tôi mỉm cười lại với họ. Tôi không có gì để nói về Chúa, thực sự không có gì để nói. Thế nên tôi cười rồi chờ. Tôi chờ một giây… rồi một giây nữa… Khi những người xung quanh nhận ra tôi không định nói gì, họ liếc nhìn nhau rồi liếc nhìn May; rồi một người quay sang một người phụ nữ trẻ và hỏi cô ta về người chồng đang làm nghĩa vụ ở Iraq.

Khi chúng tôi trở về nhà hôm đó, May nói rằng tôi đã coi thường “my people(1)”.

– Anh bôi gio trát trấu vào mặt tôi – May nói – Anh đúng là loại châu Á vô thần máu lạnh. Anh thử nghĩ xem, chúng tôi đã đối xử với anh thế nào mà anh coi thường chúng tôi như thế?

May đã nói “chúng tôi”. Chúng tôi nào? Nàng không có lý do và cũng không có quyền nổi cáu với tôi về chuyện này. May biết rõ tôi không tin Chúa khi chúng tôi lấy nhau.

May còn gọi tôi bằng nhiều tên khác nữa ngoài “đồ vô thần máu lạnh”. Tôi chưa bao giờ thấy nàng giận dữ như thế. Tôi chẳng gọi nàng bằng tên gì cả. Tôi biết May. Tôi biết tất cả bọn họ. Chẳng cần phải gọi tên nào khác.

Hình như việc tôi không nói gì làm May càng tức giận. Nàng gào lên bằng thứ tiếng Mỹ rất hợp với các cuộc xô xát:

– Do you want me to die? Should I die to make you happy, you son of a bitch(2)?

May nói xong thì lao đến gần cửa sổ như thể nàng sẽ nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Dĩ nhiên, May biết và tôi biết, nàng sẽ không nhảy.

Lúc ấy, tôi ngồi trên chiếc ghế dài tôi thường ngồi xem truyền hình. Tôi biết tôi nên chạy đến ngăn nàng nhưng tôi quá mệt. Tôi chờ một giây trôi qua. Rồi một giây nữa. May nhìn tôi. Nàng không còn khóc. Mắt nàng đỏ nhưng ráo hoảnh. Bất thần, nàng đổ người xuống sàn nhà và cuộn mình lại như một con sâu. Sau đó, nàng bắt đầu những tiếng gào khan. Tôi nhìn May. Rồi tôi đứng lên khỏi ghế và nói:

– For God’s sake, can you cut the crap?(3)

Nhưng May không còn nghe tôi nói nữa.

Tôi mở cửa thò đầu ra ngoài để hứng gió lạnh rồi quyết định đi dạo một vòng. Tôi đã định đi bộ ra tận bờ hồ Michigan; nhưng chỉ đến cuối phố 57, tôi ghé vào quán cà phê Istria và ngồi đó cho đến lúc bắt đầu lên đèn mới về nhà. Khi tôi bước vào nhà, tôi biết May đã đi. Nàng cầm theo túi xách, đồ trang điểm trên bàn phấn trong phòng ngủ và điện thoại di động. Nhưng nàng không trả lời điện thoại khi tôi gọi.

Bảy ngày trôi qua, rồi May gửi email cho tôi. Nàng nói: “Em sẽ về nhà. Chúng ta cần nói chuyện”. Tôi trả lời nàng ngay lập tức. Tôi nói “Em về đi. Chúng ta sẽ nói chuyện”.

Nhưng chúng tôi không hề nói chuyện lần đó. Khi tôi nhìn thấy May bước qua cửa, tôi bước tới ôm lấy nàng. Chúng tôi không bao giờ nhắc lại chuyện đã xảy ra.

Nhưng lần này, May không hề khóc. Tôi thậm chí cũng không chắc vì sao chúng tôi cãi nhau. Lúc đó, chúng tôi đang ngồi trong phòng khách xem một bộ phim có Bruce Willis giải cứu một bộ tộc châu Phi nào đó khỏi chế độ độc tài. Tôi nói “Gớm, Hollywood, phim nào cũng như phim nào; lần nào cũng thấy người Mỹ giải cứu thế giới, lần nào cũng thấy nước Mỹ là anh hùng cứu độ chúng sinh, các rambo Mỹ chân tay lực lưỡng diệt ác trừ gian để cứu những dân tộc nhược tiểu. Vì Chúa! Nước Mỹ cứ dẹp sang một bên, đừng xía vào chuyện thiên hạ thì thế giới có lẽ đã hòa bình hơn. Ai cho người Mỹ cái quyền tự phong mình là đấng cứu thế của thế giới. Thật là lố bịch.”

Thế rồi, trước khi tôi nhận ra, May và tôi đã đang tranh luận về cuộc chiến Việt Nam. Tôi nói, nước Mỹ đã sai khi mang quân tới Việt Nam. Nước Mỹ đã sai khi thả tới tám triệu tấn bom xuống Việt Nam, và May nên biết số bom này bằng bốn lần tổng số bom người ta dùng trong Thế Chiến thứ hai trong khi diện tích của Việt Nam chỉ lớn bằng bang New Mexico của Mỹ. Người Mỹ cũng đã sai khi rải 10 triệu tấn hóa chất, gồm cả chất độc màu da cam, xuống nhiều vùng ở Việt Nam, đến nỗi bây giờ ở nhiều nơi, cây cối vẫn chưa mọc lại bình thường và người ta vẫn không thể sinh sống vì sợ hóa chất, bom mìn. Đấy là còn chưa kể ít nhất hai triệu người Việt Nam đã chết trong cuộc chiến này và còn rất nhiều di chứng chiến tranh cho tới vài thập kỷ sau, và đấy là còn chưa kể… May nói, nhưng nước Mỹ phải đưa quân vào Việt Nam để người Việt Nam có quyền lựa chọn chế độ dân chủ nếu họ muốn. Tôi nói, ồ không, không không, xin lỗi, đấy chỉ là luận điệu tuyên truyền của giới truyền thông và chính quyền Mỹ lúc đó. Sự thật là chính quyền Mỹ và các tập đoàn tư bản Mỹ cần cuộc chiến Việt Nam vì lý do kinh tế chứ không phải vì lý do nhân quyền, lý do nhân đạo hay những cái khái niệm đẹp đẽ mà người Mỹ được nghe. Các nhà sử học và các thống kê đã cho thấy…

Nhưng tôi còn chưa trích dẫn hết các thống kê thì May đã đứng dậy khỏi ghế. “Tại sao lúc nào anh cũng phải đúng? Tại sao lúc nào anh cũng phải thống kê, lý luận? Lúc nào anh cũng chỉ nghĩ đến cái logic kiểu của anh?” Sau đó May nói: “Em không thể sống như thế này mãi được. Em phải đi.”

Phải đi? – Tôi nói.

– Anh chẳng tin bất cứ thứ gì trên đời, anh chẳng bao giờ tin có cái gì là tử tế, tốt đẹp. Anh không bao giờ tin em. Em không quan tâm nếu cả thế giới này không tin em. Nhưng anh là chồng em. Vì Chúa, anh là chồng em!

***

Tuyết rơi từ sáng. Tôi ngồi trong phòng khách đọc sách và xem truyền hình. Sáng thứ Bảy, tivi chỉ toàn quảng cáo và hoạt hình. Ngày hôm nay là ngày thứ tám. May vẫn chưa về.

Tôi hút bụi khắp nhà. Tôi giặt quần áo bẩn. Tôi tưới tất cả những cây cảnh chúng tôi trồng bên trong và bên ngoài nhà. Rồi tôi gọi Domino mang đến một cái pizza lớn với bốn lon Coca Cola – cho bữa trưa và tối. Rồi tôi ngủ.

Khi tôi tỉnh dậy đã là ba giờ chiều. Trong nhà im ắng đến nỗi tôi nghe rõ tiếng rì rì của cái tủ lạnh trong bếp. Trên truyền hình vẫn toàn quảng cáo và thể thao; điện thoại không tin nhắn cũng không có cuộc gọi nhỡ, hộp email không thư mới. Tôi tắt tivi, mặc áo khoác, đi ủng rồi đóng cửa đi bộ ra ngoài đường.

Dưới không độ. Trời khô nẻ, nhiều gió. Tôi đi đến khi nóng người thì quyết định rẽ vào hiệu sách Borders ở góc đường 53 cắt với Lake Park. Tôi lấy một quyển sách du lịch châu Á khỏi giá và ngồi đọc mục nói về Việt Nam. Họ in sai nhiều tên, dấu má lộn xộn; nhưng những tấm ảnh thì đẹp. Tôi ngồi rất lâu chỉ xem những bức ảnh Việt Nam và đọc những chỉ dẫn du lịch trên đó. Họ bảo, nếu đến Hà Nội, nhất định phải đến xem múa rối nước Thăng Long vì đó là kỳ quan độc nhất vô nhị trên thế giới. Lần tới về Hà Nội, tôi sẽ thử.

Thế rồi, tôi không thể nào đọc được nữa vì một nhóm người ở trong khu uống cà phê của hiệu sách bắt đầu nói rất to. Họ đã nói chuyện từ lúc nãy nhưng bây giờ, cuộc nói chuyện đã leo thang thành một cuộc tranh luận gay gắt. Có bốn người tham gia cuộc tranh luận trong khi những người còn lại ngồi nghe. Tất cả họ đều là người da đen. Một trong số họ chắc là sinh viên cao học kinh tế của Đại học Chicago vì anh ta mặc một chiếc áo có chữ Uchicago/GSB ở trước ngực. Một người khác bán đĩa nhạc rong trên tàu điện ngầm – anh ta ôm khư khư một hộp đĩa CD trong lòng, anh ta vòng cả hai tay để giữ chúng. Người thứ ba ngồi cạnh một chồng sách cao, toàn sách luyện thi môi giới nhà đất. Và người thứ tư là một thằng bé.

Thằng bé khoảng mười hai tuổi nhưng to lớn như một đô vật Sumo. Tuy thế, khuôn mặt nó vẫn là mặt của một đứa trẻ. Nó không có cổ mà có một cái cằm ba ngấn xệ xuống thành cổ. Cả thân người đồ sộ của nó lút trong chiếc ghế bành màu đen rồi tràn ra ngoài thành ghế. Thằng bé mặc một cái áo len đen ở bên trong; bên ngoài là áo thể thao ngắn tay màu đỏ, rộng thùng thình, có in hàng chữ “Chicago White Sox” trước ngực. Khuôn mặt thằng bé đang đỏ lên vì tức giận. Rõ ràng nó đã rơi vào bẫy của ba người lớn kia mà không biết. Ba người lớn và những người ngồi xem xung quanh quan sát cuộc tranh luận một cách thích thú.

– Được rồi, thế tức là cháu biết là có Chúa? – người sinh viên hỏi.

– Phải, cháu biết là có Chúa – thằng bé nói, giọng khản đặc.

– Làm sao cháu biết chắc? Cháu nhìn thấy Chúa chưa? Cháu đã gặp Chúa chưa?

– Chưa.

– Thế thì làm sao cháu biết là Chúa tồn tại?

Thằng bé rõ ràng thất vọng và bực mình. Nhưng nó cố gắng kiên nhẫn.

– Thế này nhé… chú đã bao giờ nhìn thấy một triệu đô la chưa?

– Chưa. Chú chưa bao giờ nhìn thấy một triệu đô la – người sinh viên trả lời với một nụ cười.

– Nhưng chú biết là một triệu đô la có tồn tại, đúng không?

– Đúng, một triệu đô la có tồn tại.

– Thì đấy, Chúa cũng thế. Chú không nhìn thấy nhưng chú biết là có tồn tại.

– Nào, nào, khoan đã – anh chàng bán đĩa CD xen vào – Tôi không nhìn thấy một triệu đô la bao giờ nhưng những người khác đã nhìn thấy. Tôi nhìn thấy một triệu đô trên vô tuyến. Em đã gặp ai nhìn thấy Chúa chưa? Em có nhìn thấy Chúa trên vô tuyến không?

– Không. Nhưng có người đã thấy Chúa. Như bà ngoại em. Bà ngoại em bảo bà nhìn thấy Chúa trong mơ. Năm ngoái, bà em trượt chân, Chúa còn chữa khỏi chân cho bà em.

– Đấy là bà em nói thế. Nhỡ bà em nói dối em thì sao? Mà bà em chỉ nhìn thấy Chúa trong mơ. Tôi còn mơ tôi biết bay, nhưng tôi đâu có bay được, đúng không?

– Bà em không bao giờ nói dối em! Không đời nào!

– OK, có thể bà em không nói dối. Có thể bà em nói thật. Nhưng đấy là sự thật của bà em. Giống như là anh mơ bay được ấy. Đấy là ảo giác. Em có biết từ “ảo giác” không? Em có biết nó nghĩa là gì không? “Ảo giác” là…

– Em biết thừa “ảo giác” là gì.

– Đấy, bà ngoại em cũng thế…. Có thể bà em đau chân nên bà em gặp ảo giác. Có thể não bà em lừa bà em.

Thằng bé suy nghĩ một lúc. Nó cắn môi. Rồi nó nói:

– Nhưng như thế thì các anh cũng không biết chắc là không có Chúa. Các anh cũng không thể nói chắc chắn được.

– Ừ, nhưng mà bọn anh có nói gì đâu – người sinh viên nói – Bọn anh biết hay không không quan trọng. Vấn đề là bọn anh đang hỏi là làm thế nào em biết là có Chúa.

– Em biết. Có thế thôi. Các anh chẳng hiểu được đâu.

Khuôn mặt thằng bé đã chuyển từ đỏ sang tái. Môi nó bợt đi, hai mắt tối sầm.

– Thì thế nên bọn anh đang cố hiểu – người sinh viên nói – Nghe này, bọn anh không định trêu em. Bọn anh chỉ đang cố hiểu.

– Nhưng em không cần các anh hiểu – giọng thằng bé đanh lại.

– Kìa kìa… thôi nào… nghe anh nói này…

Bọn họ tiếp tục một lúc như vậy. Tôi bắt đầu nhìn ra ngoài cửa sổ để xem xe cộ qua lại trên phố 53 và Lake Park. Ngã tư này đông người. Xe đi từng đợt như hơi thở của một người mắc bệnh hen suyễn. Có một quầy bán báo nhỏ đứng ở trên vỉa hè bên kia đường. Người chủ sạp báo ngồi phía trong, thò đầu ra ngoài qua ô cửa sổ nhỏ. Báo, tạp chí, kẹo cao su, kẹo gôm, và một triệu thứ khác bay quanh anh ta. Trời ngày càng gió và tuyết.

Tôi tiếp tục xem tranh và đọc những dòng chú thích nhỏ li ti về các quán ăn ở Hà Nội. Tôi nghe loáng thoáng thằng bé nói gì đó về “living in the ghetto” và “doing ghetto stuff”(4). Hẳn là nó đã nói gì đó sai vì những người ngồi quanh nhao nhao hỏi nó về “ghetto”:

– Em có thể giải thích cho anh “ghetto” là gì không? Em bảo em “doing ghetto stuff” là thế nào?

– Nó nghĩa là làm những việc ngu ngốc – thằng bé trả lời.

– Thế thì “ghetto” có nghĩa là “ngu ngốc”?

– Đại loại thế.

– Thế thì em bảo em “living in the ghetto” tức là em “sống trong sự ngu ngốc”?

– Ừm…

– Sống trong ngu ngốc thì như thế nào nhỉ? – người sinh viên hỏi – Cảm giác ấy như thế nào?

– Em nói sống trong ngu ngốc là có ý gì? – người ngồi cạnh chồng sách luyện thi môi giới nhà đất xen vào – Thế những người không sống ở ghetto thì họ sống ở đâu?

Thằng bé nghĩ một lúc. Nó lại cắn môi. Tất cả những người xung quanh đều hau háu nhìn nó chờ đợi. Cuối cùng, thằng bé thở mạnh và nói rất nhanh:

– Thì… sống ở sân bay… – rồi nó thêm – em đoán thế.

Ôi, họ cười. Tám người tất cả. Bọn họ cười. Người thì vùi mặt vào hai lòng bàn tay, người rung lên từng đợt mặc dù không phát ra tiếng. Người thì chỉ tủm tỉm, vừa lắc đầu vừa nhìn vào mặt thằng bé với vẻ nửa ngưỡng mộ, nửa kinh ngạc. Người sinh viên chặn một tay vào bụng, còn tay kia làm thành nắm đấm gí vào miệng để khỏi phát ra tiếng trong lúc mắt anh ta ngấn nước vì cố nhịn cười. Hầu hết những người còn lại phá ra cười rất to – họ cười to đến nỗi tất cả những người có mặt trong hiệu sách đều quay ra nhìn. Anh chàng bán đĩa CD thậm chí ngã khỏi ghế; những cái đĩa và gói kẹo gôm tung tóe trên sàn nhà.

Thằng bé hoang mang. Mặt nó chuyển từ đỏ sang tái, rồi lại chuyển trở lại đỏ. Hai tay nó bám chặt vào thành ghế.

– Nào nào, thôi nào – người sinh viên nói với những người xung quanh – Các anh thật là quá quắt. Các anh làm thằng bé giận rồi.

Những người còn lại lập tức cố nín cười nhưng họ vẫn còn tủm tỉm. Họ lại nhìn hau háu vào mặt thằng bé.

– Nghe anh nói này – người sinh viên nói với thằng bé – Họ không cười nhạo em đâu. Họ cười vì điều em vừa nói rất là hài hước. Em rất có khiếu hài hước, em có biết không? Rất hài hước đấy.

Thằng bé không trả lời. Mặt nó đăm đăm.

– Thôi nào – họ tranh nhau nói – Bọn anh rất quý em.

– Bọn anh thực sự thích em đấy.

– Em rất thông minh, thế nên bọn anh mới muốn hỏi chuyện em.

– Em còn rất hài hước nữa… thực sự hài hước…

– Đừng giận nữa. Bọn anh nói thật đấy.

Thằng bé vẫn không trả lời. Nó liếc nhìn từng người một. Ai cũng mỉm cười và gật gật đầu khi nó nhìn. Thằng bé có vẻ nguôi nguôi. Người sinh viên lại hắng giọng:

– Được rồi, bây giờ nghiêm túc này. Nếu như có Chúa, nếu thực sự có Chúa, như em vừa nói với bọn anh, thì Chúa ở đâu?

– Khắp nơi!

– Khắp nơi? Tức là Chúa có trong phòng này?

– Dĩ nhiên.

– Chúa có trên ghế này không? – người sinh viên chỉ vào cái ghế bành mà thằng bé đang ngồi.

– Có.

– Chúa ở trong ghế này? Chính cái ghế này?

– Dĩ nhiên… Chắc thế…

– Sao lại chắc thế? Em bảo Chúa ở khắp nơi cơ mà.

– Thì Chúa ở khắp nơi.

– Nhưng em đang ngồi trong ghế này. Thế thì Chúa ở đâu? Hay em là Chúa? Em có phải là Chúa không?

– Không. Em không phải là Chúa. Nhưng Chúa ở trong em.

– À… ra thế… Chúa ở troooong em. Thế thì em có một phần Chúa?

– Em có linh thể của Chúa ở trong người.

– Chính xác là chỗ nào? Chỉ cho anh xem nào?

– Nhưng mà linh thể là cái gì đã? – người bán đĩa CD lại chen vào – có linh thể là như thế nào?

– Nhưng mà em có sống ở sân bay đâu – người luyện thi môi giới nhà đất nói.

Anh ta đã nói bằng giọng tỉnh bơ; nhưng rồi anh ta không nhịn được mà “hứ” một tiếng, rồi phá ra cười. Những người khác lập tức mím môi để ngăn tiếng cười hoặc quay mặt đi.

Thằng bé im lặng nhìn lần lượt từng người. Mặt nó cứ đỏ dần đỏ dần lên; từ hai má lan sang hai tai. Đột nhiên, nó hét lên:

– Chúa ở đây. Chúa ở khắp nơi. Chúa ở trong tôi. Tại sao các người không chịu hiểu? Tại sao các người không nhìn thấy? Các người toàn là đồ ngốc. Toàn một lũ ngốc. Tại sao các người không chịu mở mắt ra mà nhìn?

Những người ngồi quanh lập tức trở nên hào hứng khác thường. Họ tranh nhau nói; không ai còn nghe thấy tiếng ai. Người thì trấn an thằng bé. Người thì khuyến khích cổ vũ nó. Người thì vẫn chỉ tủm tỉm cười. Họ nói chuyện với nhau, người gật gù, người lắc đầu. Rồi người sinh viên cao giọng át tiếng ồn:

– Thôi nào, thôi nào, nếu em là Chúa, hoặc Chúa ở trong em như em vừa nói, thì nếu như em nhảy qua cửa, em sẽ không bị gãy chân, đúng không?

Trong lúc những người lớn còn xôn xao về lời đề nghị này, thằng bé đã bật dậy khỏi ghế, chạy đến bên cửa ra ban công và trèo lên. Không ai ngờ thằng bé có thể cử động nhanh như vậy so với thân người to béo của nó. Chỉ vài giây, nó đã ngồi trên bệ ban công, hai tay dang ra. Trong một khoảnh khắc, tất cả những người trong quán đều bất động. Họ chỉ nhìn chằm chằm vào thằng bé. Họ biết.

Thằng bé quay đầu nhìn. Khuôn mặt nó không hề giận dữ, chỉ có hai môi mím chặt. Không thể nhìn rõ ánh mắt nó dưới mí mắt hụp xuống nhưng tất cả những người ngồi đó đều biết thằng bé đang nhìn. Nó nhìn lần lượt từng người. Tám người. Không một ai cử động. Rồi, thằng bé khẽ nâng người lên.

Lúc đó, tôi ngồi ngay cạnh cửa ra ban công. Tôi không nghĩ gì cả. Tôi chỉ bật dậy và lao ra. Tôi vung hai tay ôm lấy chân thằng bé. Nó vẫn ở trên bệ ban công trong tư thế ngồi xổm. Nó giật mình khi thấy tôi ôm lấy chân nó. Nó giật mình hét lên một tiếng, rồi vung tay bám chặt vào lan can. Khi nó nhận ra chuyện gì đang diễn ra, nó bắt đầu lấy hai tay đẩy vai tôi ngược trở lại. Nó cố đẩy tôi ra. Nó dùng hai nắm đấm để đấm vào tay, vào vai, vào đầu tôi; rồi lấy tay cố gỡ hai bàn tay tôi. Nó thở hổn hển trong lúc đấm và đẩy tôi ngược trở lại. Bàn tay nó nhiều thịt; nó đẩy vụng về như một đô vật Sumô trên màn hình vô tuyến quay chậm. Hơi thở của nó phà vào mặt tôi càng lúc càng mạnh – hơi thở đầy mùi sữa và dâu tây. Nó đấm nhanh hơn. Nó đấm tôi thật sự – bằng những nắm đấm mạnh nhưng mềm vì đầy thịt. Và nó bắt đầu rủa tôi. Nó vừa rủa vừa xin tôi thả hai chân nó ra. Sau đó nó chửi tôi. Nó chửi ngày càng to và điên cuồng, giọng thất thanh hổn hển. Nhưng tôi nhất định không thả. Tôi vẫn ôm chặt hai chân nó.

Đằng sau tôi, những người đàn ông vừa nhìn hai chúng tôi vừa cười lăn lộn. Lần này, họ cười còn to hơn lần trước. Họ không còn phải cố nhịn nữa. Họ vỗ hai tay vào nhau; họ đập chân xuống sàn; họ gục mặt xuống thành ghế; họ gõ tay xuống mặt bàn và ôm bụng. Họ đập cả những cuốn tạp chí vào nhau; rồi tựa vào vai nhau và lồm cồm bò trên sàn vì cười. Họ vừa cười ngặt nghẽo vừa cố nói qua tiếng cười:

– Ôi Chúa! Ôi đức mẹ Maria!

– Ôi đức Giêsu Kitô lòng lành!

– Trời đất quỷ thần ơi!

– Lạy Chúa cứu thế, nhìn xem kìa!

– Ôi Chúa, hãy nhìn David và Goliath của chúng ta kìa(5)!

“Ôi Chúa!” – họ liên tục ôm bụng cười. Tôi không quan tâm. Tôi chỉ ôm chặt lấy hai chân thằng bé… Tôi cứ ôm chặt hai chân thằng bé…

Minh họa của Vũ Huyên (Người Đại biểu Nhân dân)

*

Chú thích:

1.    “Những người của tôi”. Ở đây có hàm ý tôn giáo vì Chúa phân biệt con cái của Chúa (gọi là “my people”) và những người ngoại đạo. Những thứ chơi chữ này rất khó diễn giải sang tiếng Việt.

2.    Anh muốn tôi chết hả? Chắc là tôi chết thì anh mới sung sướng, đồ chó

3. Vì Chúa, em thôi cái trò hề đó đi.

4. “Sống trong ghetto” và “Làm những việc ghetto”: Ghetto là từ lóng dùng để chỉ những khu nhà ổ chuột cho người da đen trong các thành phố lớn. Một thời gian dài trong thế kỷ XX, người da đen Mỹ thường sống tập trung trong các khu nhất định ở các thành phố lớn; ở đây, dân phần lớn nghèo, người lớn thất nghiệp nhiều, trẻ con thất học, nhiều tệ nạn xã hội. Khi dùng như một tính từ, ghetto là từ lóng để ám chỉ những hành vi mà người da đen hay làm trong các khu ổ chuột như trộm cắp, nghiện hút, lêu lổng.

5. Tích nổi tiếng trong Kinh Thánh: David nhỏ bé chiến đấu với người khổng lồ Goliath.

 

 

 

Ý kiến - Thảo luận

23:06 Monday,8.7.2013 Đăng bởi:  admin

@ Mai Ngoc: Nói như bạn đã dẫn, thì 1775 nước Mỹ ra đời (lúc ấy họ vẫn chưa "phải" tin vào Thiên Chúa), đến 1848 ông Marx viết Tuyên ngôn Cộng sản, thế là vào 1864, do "sợ cộng sản quá" nên nước Mỹ phải "bịa" ra một thứ "quyền lực trừu tượng" để cân bằng, đó là Chúa?


...xem tiếp

23:06 Monday,8.7.2013 Đăng bởi:  admin

@ Mai Ngoc: Nói như bạn đã dẫn, thì 1775 nước Mỹ ra đời (lúc ấy họ vẫn chưa "phải" tin vào Thiên Chúa), đến 1848 ông Marx viết Tuyên ngôn Cộng sản, thế là vào 1864, do "sợ cộng sản quá" nên nước Mỹ phải "bịa" ra một thứ "quyền lực trừu tượng" để cân bằng, đó là Chúa?

Nếu Mai Ngọc cũng thấy là buồn cười, thì sao trong một cmt, bạn lại dẫn ra như một căn cứ để nói rằng, "Người Mỹ tin ở Chúa Trời nhưng không giống như ta tin vào một đấng nào đó hiển hiện và tồn tại thật sự. Ngược lại, họ tin ở Chúa như tin vào một thứ gì đó không tồn tại hiện hữu, nhờ đó mà những thói xấu và quyền lực không kiểm soát đựơc của con người có thể được kiểm soát. Còn những tiếng gọi Jesus chỉ là những lời cảm thán kiểu ta nói: Trời đất, Trời ơi..." ?

Nhưng thôi, Soi e rằng chúng ta đã đi quá xa, đến hai lãnh vực mà chắc cả Soi, cả Mai Ngoc đều mù tịt, là Mỹ và tôn giáo. Chỉ nên tóm lại một kết luận: Soi thích truyện ngắn này của Phan Việt, còn Mai Ngoc thì không, thế thôi nhỉ?

Thân mến,

 
23:00 Monday,8.7.2013 Đăng bởi:  SiêuNoob

Nghe các bạn tranh luận kịch liệt thì lại càng thấy hoang mang về khả năng cảm thụ của bản thân mình. Không biết có phải là mù quá rồi không. Mình chẳng thấy Phan Việt chế nhạo đức tin nào ở đây như Mai Ngọc nói cả. Cũng như không thấy vấn đề gì liên quan đến người thú/th&
...xem tiếp

23:00 Monday,8.7.2013 Đăng bởi:  SiêuNoob

Nghe các bạn tranh luận kịch liệt thì lại càng thấy hoang mang về khả năng cảm thụ của bản thân mình. Không biết có phải là mù quá rồi không. Mình chẳng thấy Phan Việt chế nhạo đức tin nào ở đây như Mai Ngọc nói cả. Cũng như không thấy vấn đề gì liên quan đến người thú/thú người như Minh Hương nêu ra.

Đọc câu chuyện này mình chỉ thấy nó cho một cái nhìn nhân bản về sự hiện hữu của Chúa. Mà theo mình hiểu ở đây là tính thiện hiện hữu trong mỗi con người. Mình thấy Chúa/cái thiện xuất hiện ở cuối câu chuyện. Khi nhân vật chính ôm lấy cậu bé. Đấy là lúc Chúa/thiện đã xuất hiện trong người anh ta. Cái thú vị là anh chàng này là người vô thần, và trong khoảnh khắc ấy, anh ta không ý thức được sự xuất hiện của Chúa, anh ta chỉ hành động một cách vô thức. Đặc biệt hơn nữa, cậu bé da đen là người mộ đạo, nhưng trong khoảnh khắc ấy cậu ta cũng không nhận biết được là Chúa đã xuất hiện đẻ bảo vệ cậu. Và tất nhiên những người xung quanh cũng không ý thức được điều này. Nhưng mình tin là sau đó tất cả bọn họ sẽ nghiệm ra.

Mình cảm nhận câu chuyện như vậy đấy. Xin nói thêm là mình là người vô thần nhé. Mình thấy truyện hay, nhưng nói thật là rườm rà, lan man, và ngôn ngữ thì đúng như bạn Mai Ngọc nói, rất là "lộ cộ" :)

 

(Đề nghị gõ chữ tiếng Việt có dấu và không viết tắt)

Dòng sông và đô thị

Phó Đức Tùng

Tìm kiếm

Tiêu đề
Nội dung
Tác giả