Tạp hóa - Xã hội

Nghe nhạc gì trong mùa Phục sinh? 10. 04. 17 - 6:43 am

Trịnh Bách

(SOI: Năm ngoái chúng ta đã điểm qua những bài nhạc người ta hay nghe vào Giáng sinh. Ở cuối bài ấy, Soi có lời hứa sẽ giới thiệu tiếp nhạc cho mùa Phục sinh…)

Nhạc Phục sinh không nhiều bằng nhạc Giáng sinh. Phổ biến nhất cho lễ Phục sinh là 3 khúc nhạc thánh trích ra từ 3 tác phẩm cantata của Johahn Sebastien Bach (1685-1750).

Cantata là loại nhạc diễn xướng có nhiều phân đoạn, và có khi có phân vai, nhưng không có diễn xuất như trong các nhạc kịch (opera). Phần nhiều các tác phẩm này viết chung cho tất cả các lễ, hay các dịp quan trọng. Rồi về sau theo lệ quen được trình bầy riêng cho dịp lễ nào đó, mà phần nhiều không phải là do chủ ý của tác giả.

Minh họa từ trang này

Jesus bleibet meine Freude (Jesus Joy of Man’s Desiring)

Khúc nhạc ‘Jesus Joy of Man’s Desiring’ (Jesus, ước vọng của nhân loại), tên nguyên thủy tiếng Đức là ‘Jesus bleibet meine Freude’ (Jesus luôn là niềm vui của tôi). Đây là phân khúc thứ 10 của bài cantata tôn giáo ‘Herz und Mund und Tat und Leben’ (Tâm, khẩu, mệnh và đời).

Bài nhạc thánh này được Johahn Sebastien Bach viết năm 1716. Nhưng lúc đó nhằm vào thời gian Tĩnh lặng (tempus clausum, time of silence) của mùa lễ Vọng (Advent), cho nên âm nhạc, trong đó có bài này, không được trình diễn trong thánh lễ. Lúc đó bài nhạc chưa có phân khúc ‘Jesus bleibet meine Freude’.

Năm 1723 khi ở Leipzig, Bach viết phân khúc cuối, tức phân khúc thứ 10 này, và hoàn tất bài nhạc cho dịp lễ Viếng (Visitation) ngày 2 tháng 7 năm ấy (lễ này được dời đến ngày 31 tháng 5 từ năm 1969). Bach lấy giai điệu và tên của bài hát lễ ‘Jesus bleibet meine Freude’ (Jesus luôn là niềm vui của tôi) do Johann Schop viết năm 1661 làm giai điệu và tên cho phân khúc thứ 10. Trong khi lời bài ca lại được Bach lấy từ lời của bài kinh ‘Jesus, meiner Seelen Wonne’ (Jesus, niềm vui sướng của hồn tôi) do nhà thần học Martin Janus’ (1620–1682) viết năm 1661.

Đến năm 1906, thi sỹ nổi tiếng người Anh Robert Bridges (1906) dịch bài nhạc này ra tiếng Anh là ‘Jesus Joy of Man’s Desiring’. Bản tiếng Anh này được phổ biến cho đến ngày nay.

.

Phân khúc ‘Jesus bleibet meine Freude’ được Bach viết cho dàn nhạc Giao hưởng và hợp xướng. Lúc đầu phân khúc này có thể được hát ở đám cưới, Giáng sinh và Phục sinh. Về sau đoạn này được trình diễn chủ yếu cho lễ Phục sinh.

Các bạn nghe:

Jesus bleibet meine Freude – Orchestra với chorale (Dàn nhạc với hợp xướng)
Jesus Joy of Man’s Desiring – Orchestra với chorale
Jesus Joy of Man’s Desiring – John McCormack Tenor
Jesus Joy of Man’s Desiring – Anne Queffélec Piano

Zion Hort Die Wachter Singen (Sleepers Awake)

Sleepers Awake (Hãy thức dậy, những kẻ ngủ mê), tên nguyên thủy tiếng Đức là ‘Zion Hort Die Wachter Singen’ (Zion nghe tiếng hát của người gác). Zion có nghĩa là người Jerusalem, tức người Do Thái giáo, bị cho là lầm lạc vì đã bức tử Chúa Jesus.

Đây là phân khúc thứ 4 trong bài nhạc thánh Wachet auf, ruft uns die Stimme (Hãy thức dậy, có tiếng gọi chúng ta), được Johahn Sebastien Bach viết cho dịp lễ Chủ nhật sau lễ Chúa Ba ngôi (Sunday after Trinity) lần thứ 27 (rơi vào ngày 25 tháng 11 năm 1731). Và tác phẩm này được trình bầy lần đầu tiên ngày hôm đó. Về sau phân khúc Zion Hort Die Wachter Singen phần nhiều được trình bầy trong dịp lễ Phục Sinh. Phân khúc thứ 4 này được viết cho giọng nam cao (tenor) độc xướng hoặc hợp xướng. Lời ca là tiếng Thiên Chúa đánh thức kẻ mê lạc.

.

Các bạn nghe:

Zion Hort Die Wachter Singen- Orchestra với chorale (Dàn nhạc với hợp xướng)
Zion Hort Die Wachter Singen – Max van Egmond
Zion Hort Die Wachter Singen – Alessio Bax – piano  

Schafe können sicher weiden (Sheep may safely graze)

Khúc ‘Schafe können sicher weiden’ (Mục đồng có thể cho chiên ăn cỏ bình yên), tiếng Anh là ‘Sheep may safely graze’ (Con chiên có thể ăn cỏ bình yên), là phân khúc thứ 4 của bài nhạc Was mir behagt, ist nur die muntre Jagd (Chuyến săn vui vẻ là ước nguyện của lòng ta) được JS Bach viết năm 1713, nhân dịp sinh nhật thứ 31 của Công tước Christian xứ Saxe-Weissenfels, để tặng Công tước và người dân xứ này.

Bài ‘Was mir behagt, ist nur die muntre Jagd’ là một bài cantata thế tục, với 4 giọng hát, phụ họa bởi hai tiêu trúc (picolo), dàn nhạc nhẹ và đàn phím đệm ngẫu hứng (basso continuo). Trong đó giọng nữ cao (soprano) thứ 2 là vai nữ thần Diana.

Tuy nhiên trong phân khúc thứ 4, Schafe können sicher weiden, dù lời ca vẫn dành cho giọng soprano 2 độc xướng, nhưng lại trong vai mục đồng. Và phân khúc này ở thể loại nhạc thánh. Tiếng tiêu trúc dìu dặt của mục đồng cũng là biểu tượng của tiếng chuông trên cổ đàn cừu đang thanh thản ăn cỏ. Và lời ca mang ngụ ý lời an ủi, bảo bọc đàn chiên của người chăn chiên, tức Chúa Jesus.

Hình ảnh từ trang này 

Các bạn nghe

Sheep may safely graze – Gillian Fisher
Sheep may safely graze – dàn nhạc và hợp xướng 
Sheep may safely graze – tứ tấu đàn dây 
Sheep may safely graze (piano) – Leon Fleisher Piano 

Ý kiến - Thảo luận

(Đề nghị gõ chữ tiếng Việt có dấu và không viết tắt)

Vì sao nên tài trợ cho nghệ thuật?

Robert Hewison - Ngọc Trà dịch

Tìm kiếm

Tiêu đề
Nội dung
Tác giả