Tranh Thangka Tây Tạng – Khi cuộc sống là ĐỦ
11. 10. 11 - 1:58 pm
Thiên Hương
.
Dân số Tây Tạng gốc chừng chiếm chưa đầy một nửa trên mảnh đất gần 4 triệu dân. Hầu như ở mọi địa điểm của thành phố khá hiện đại này, người Hán đều đóng vai trò chủ chốt, đặc biệt những năm gần đây khi chính phủ Trung Quốc đưa quân đội lên đây thì hình ảnh người lính Trung Quốc cầm súng lại càng nổi bật giữa khung cảnh nơi đây. Tuy thế, cũng vui là trong thời gian ngắn ngủi ở Lhasa, một trong những nơi hiếm hoi đậm đà vị Tây Tạng, tôi đã tìm thấy các cửa hàng tranh Thangka.
Khung & tranh truyền thống khi đang “sáng tác” (vẽ xong mới cắt ra, bo trên giấy riêng). Trong bộ phim Samsara cũng có hình ảnh chiếc khung tranh “y chang” như vậy
Lhasa “được” nhiều, mất cũng nhiều
Lhasa “Tàu” hóa quá nhiều quá (có lẽ phải đi sâu hơn mới nhận lại được hơi thở nguyên sơ của vùng đất thiêng liêng mệnh danh là nóc nhà thế giới này!) Sau hai ngày hối hả lê la chợ búa chui rúc vào những cửa hàng bán buôn nằm trong hẻm chợ, tôi nhận ra ngay cả những đồ lưu niệm đậm chất Tây Tạng nhất cũng được sản xuất ở Trung Quốc, riêng đồ dệt thì thường tới từ Nepal.
Một góc cung điện Potala (phần cung điện trắng) nơi hàng chục nghìn hiện vật đã bị cướp đi
Lại nói thêm, dù cao cheo leo ở nóc nhà thế giới, Tây Tạng vẫn “thâm hụt” kha khá sau Cách mạng văn hóa, 1/3 đồ vật tại cung điện Potala biến mất, hơn 10,000 nhà sư bị thảm sát, Lạt ma thứ 14 cũng lưu vong sang xứ người (và giờ chỉ còn update đều đặn Wall Post trên Facebook!). Bù lại, nghe đồn cái Tây Tạng có thêm là 14,000 camera lắp chi chít song kín đáo tại mọi điểm nhạy cảm. Dọc đường tới hồ Namtso, lính tráng rải một vệt dài đến 5km, khách du lịch cứ nhìn thỏa con mắt (nhưng không được chụp ảnh!), và tại Lhasa, những trạm gác nho nhỏ chừng 2, 3 thì lính rất nhiều!
Chỉ tới khi tình cờ bước vào cửa hàng tranh Thangka nọ trên phố tôi mới chợt cảm thấy thêm một mạch đập Tây Tạng vẫn đang nóng ấm nơi đây.
Một bức tranh Thangka khá đặc trưng
Hai bức tranh Thangka BUỘC-PHẢI-XEM
Tới Tây Tạng không xem tranh Thangka thì phí quá, xem mà bỏ qua hai bức này lại càng phí hơn!
Bức thứ nhất: bản đồ!
Bức thứ nhất trông như một bản đồ vùng đất có đường bao mang hình dáng người phụ nữ đang nằm, dáng chân, tay khá động trên điểm tựa là mặt lưng đặt vững chãi. Bức tranh “bản đồ” này thể hiện khá nhiều ngôi chùa, đền. Ở đúng vị trí trung tâm – nơi trái tim– là ngôi đền Jokhang thiêng nhất Tây Tạng (ở trung tâm thành phố Lhasa). Các vị trí trọng yếu được đánh dấu bằng nhiều ngôi đền, chùa khác nhau. Người ta nói rằng Tây Tạng đang giữ sự ổn định cho không chỉ vùng đất này mà cả thế giới. Chỉ một thay đổi nhỏ khiến dáng người đang nằm kia bị lệch, thế giới sẽ chao đảo, động đất, núi lửa, lũ lụt! Và bởi thế mọi ngôi đền, chùa ở đây đều đóng vai trò như chiếc đinh gim, giữ gìn sự cân bằng, sự ổn định cho thế giới!!! Choáng toàn tập.
Tôi buột miệng hỏi “Vậy nước Nhật động đất thường thế liệu có thể tới đây xin xây chùa trấn không?”. Anh họa sĩ người Tạng gật đầu đầy nhưng nói thêm rằng, thuật trấn đất – được thực hiện bởi những nhà sư cao tay nhất – rất thiêng liêng, song người Tây Tạng cũng tin vào karma, vào những điều phải xảy ra nên nếu con người không thân thiện với thiên nhiên, thì cũng nên đón đợi hậu quả tất yếu. Triết kinh!
Dù sao, đây cũng là một trong vô vàn ví dụ về nếp sống thuận với thiên nhiên của người Tây Tạng. Rất tiếc bức tranh khổ lớn tôi xem ở bảo tàng Lhasa (miễn phí vé vào cửa) thì không chụp được, bảo tàng hạn chế ánh sáng tối đa để các vật trưng bày khỏi bị hỏng, chỉ le lói chút đèn chiếu. Còn bức tranh tại cửa hàng thì đang vẽ dở mới đi vài nét chính.
… Bức tranh thứ 2 thu hút mọi con mắt trần tục lẫn… nghệ sĩ…
Bức tranh thứ hai thu hút mọi con mắt trần tục lẫn… nghệ sĩ vì quá hiện đại: Phật ngồi chính giữa (như rất nhiều bức khác), trong lòng là một cô gái ở truồng vòng tay ôm cổ, đang hôn Phật say sưa. Cô gái được vẽ màu trắng nổi bật trên nền da xanh của Phật. Bố cục khá thoáng tay so với các tranh khác, hình khối khái quát, mạnh mẽ và đầy cảm hứng. Anh họa sĩ, tên Norbu, trò chuyện nôm na thế này: Mật tông Tây Tạng có 4 nhánh chính (trong đó Hoàng giáo với các nhà sư đội mũ chỏm vàng như mào gà, tuy ra đời muộn song phát triển mạnh mẽ nhất tới ngày nay). Trong những nhánh đã “tàn phai” có một nhánh lấy cực khoái làm chân tu. Tiếc quá, nghe nói nhánh này đã tuyệt chủng!.
Họa sĩ Norbu, 22 năm vẽ tranh Thangka tại gallery gia đình.
Thangka – nghệ thuật của thái độ sống
Thangka là một dòng tranh dân gian có nguồn gốc Nepal, theo chân công chúa Bhricuti tới Tây Tạng sau cuộc hôn nhân chính trị với Tạng Vương Sron Tsan Gampo (sau đó, Tạng vương lại cưới tiếp công chúa Văn Thành, nhà Đường). Trong đó nhánh tranh thờ Phật Giáo là mảng nổi bật nhất với những bức tranh chân dung, tranh kể chuyện như tích La Hán qua sông, Avalokitesvara với một biển lòng yêu thương, hay chân dung guru Dragbo nhìn khá dữ tợn với ba mắt, răng nhọn dài đe dọa… Thangka có thể là tranh thêu kỳ công, chỉ vàng đính ngọc, đá turquoise cực kỳ tinh xảo, hoặc vẽ trên vải trên giấy bằng màu tự nhiên… Người ta cũng tìm thấy những bức tranh Thangka vẽ thẳng lên núi đá.
Dù là hình thức nào, tranh cũng ào ạt cuốn theo với hàng nghìn chi tiết nhỏ tỉ mẩn mà họa sĩ vẽ tranh có thể mất tới hàng tháng mới hoàn thành. Chất liệu (màu tự nhiên, dùng cả vàng, bạc thật) và đường nét là điểm nói lên “đẳng cấp” của Thangka
Người Tạng rất trân trọng Thangka, tranh thường được một tấm lụa phủ che chở, có giá đỡ cầu kỳ ở trên như một phần không thể thiếu của bức tranh, đôi khi tranh cũng được cuộn lại bỏ vào ống và khoác trên vai các nhà sư trong suốt hành trình.
Trong lịch sử, Tây Tạng từng có có hai ngôi trường dạy vẽ Thangka chuyên nghiệp, người họa sĩ trước khi cầm bút tỉ mẩn đi từng nét nhỏ cần phải thông tuệ tiếng Tạng, am hiểu các tích truyện, phải cảm được cái hồn của nhân vật trước khi đặt bút vẽ. Cả quá trình ấy có thể mất tới 7, 8 năm. Lại nói, một người họa sĩ Thangka có thể mất ròng rã nhiều tháng mới hoàn tất đến từng chi tiết của tranh, và mặc dù lối vẽ “công nghiệp” chia mỗi người một công đoạn chắc chắn sẽ giúp rút ngắn thời gian, lối vẽ ấy không được hưởng ứng tại đây để giữ cho cảm xúc và đường nét tranh luôn nhất quán, và quan trọng hơn, bởi vì những họa sĩ người Tạng thấy việc tiết kiệm thời gian là không cần thiết và cách thức ấy là thiếu tôn trọng Thangka.
Mất 6 tháng để hoàn tất bức tranh này tới từng chi tiết. Bức này khổ 70 x 90cm có giá 5.000 tệ.
Người Tây Tạng ít bon chen, không vội vã, phần đông thường điềm tĩnh và khá cởi mở, thái độ sống ấy còn rất đẹp bởi sự san sẻ giữa người với người. Tôi nhớ hình ảnh người ăn xin Tạng vóc người cao lớn, khoác tay nải, một tay đều đặn quay chiếc chuyển pháp luân một tay chống gậy miệng đọc to những lời cầu nguyện chúc phúc. Đi tới đâu người cho sẽ tự tiến tới “biếu” tiền (thường chỉ vài xu, thậm chí còn chưa được 1 tệ) bằng hai tay đầy chân thành, chia sẻ. Tôi gặp hình ảnh người ăn xin ở nhiều nơi, nhưng người ăn xin không… xin và người cho không có thái độ bố thí là điều hơi hiếm.
Anh họa sĩ tôi gặp cũng bước ra biếu tiền, vẻ mặt vẫn lắng trầm ngâm, anh bảo tiền làm ra được, cuộc sống không cần nhiều, cuộc sống cần Đủ.
Chia sẻ:
Ý kiến - Thảo luận
13:23Wednesday,6.3.2013Đăng bởi: Phạm Huy Thông
Cám ơn bạn Phạm Quang Hiếu
...xem tiếp
13:23Wednesday,6.3.2013Đăng bởi: Phạm Huy Thông
Cám ơn bạn Phạm Quang Hiếu
12:53Wednesday,6.3.2013Đăng bởi: phạm quang hiếu
@ Phạm Huy Thông: Hồi 2008 tại bảo tàng Mỹ Thuật có triển lãm "Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo châu á", nhiều bức tuyệt đẹp!
Hình ảnh phối ngẫu mang tính biểu tượng, tượng trưng cho sự thống nhất của từ bi (nam) và trí tuệ (nữ), của phương tiện (nam) và tính không (nữ), của hữu h&i ...xem tiếp
12:53Wednesday,6.3.2013Đăng bởi: phạm quang hiếu
@ Phạm Huy Thông: Hồi 2008 tại bảo tàng Mỹ Thuật có triển lãm "Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo châu á", nhiều bức tuyệt đẹp!
Hình ảnh phối ngẫu mang tính biểu tượng, tượng trưng cho sự thống nhất của từ bi (nam) và trí tuệ (nữ), của phương tiện (nam) và tính không (nữ), của hữu hình và vô hình, của vật thể và không gian chứa đựng nó...Đôi khi, biểu tượng ấy cũng biểu thị cho tính nhất như của Niết Bàn và Luân Hồi, hay Giác Ngộ và Vô Minh. Ngoài ra, trong sự hành pháp, một số phái thuộc Mật Tông cũng sử dụng hành vi này như một phương pháp nhằm tìm kiếm giác ngộ và giải thoát. Chủ yếu là do quan điểm hóa giải các mặt đối lập, chuyển hóa bằng cách tận dụng chứ không loại bỏ.
Hình tượng và phương pháp này có nguồn gốc từ Ấn độ giáo, nhưng không phải là sự sao chép nguyên si mà đã được Phật giáo hóa bởi từ bi, trí tuệ và tính không, bởi sự thay thế các hình tượng từ Shiva, Kali, Brahma...sang các vị Phật, Bồ tát, Tara...
Bức tượng trên BBC cũng phình phường phôi, người ta la ó vì cái ti được diễn tả hơi thực chăng?
...xem tiếp