|
|
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Trường pháiMàu trắng của sơn dầu 22. 04. 13 - 6:35 amNguyễn Đình ĐăngThật không ngoa khi coi trắng là mẹ của tất cả các màu. Vào năm 1671, Isaac Newton phát hiện ra rằng chùm ánh sáng trắng khi đi qua một lăng kính thì “đẻ ra” bảy chùm ánh sáng màu là đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm và tím. Bảy chùm ánh sáng màu này sau khi đi qua một lăng kính lộn ngược thì lại được hợp nhất thành chùm ánh sáng trắng1. Nói cách khác, theo luật cộng màu của ánh sáng thì trắng không phải là một màu mà là tổng hợp của tất cả các màu. Nhưng theo luật trừ màu của các màu hóa chất như màu vẽ thì không thể tạo ra màu trắng từ bất kỳ tổ hợp nào trong 7 màu nói trên. Trộn tất cả các màu hóa chất này với nhau ta chỉ được một màu xỉn bẩn, gần với màu đen vì màu hóa chất không tuyệt đối tinh khiết để ta có thể pha ra màu đen. Bởi vậy mà trong sơn dầu thì trắng được coi là màu. Màu đen cũng tương tự như vậy. Theo quy luật cộng màu của ánh sáng thì đen lại là sự vắng mặt hoàn toàn của màu: khi không có bất kỳ ánh sáng nào, còn theo quy luật trừ màu, đen là kết quả cuả sự pha trộn tất cả các màu. Như vậy trắng và đen là hai đối cực, là triết học của màu sắc. Màu trắng vừa là biểu tượng cho sự tinh khiết, cho sự thiêng liêng, cho cuộc sống, lại vừa tượng trưng cho tang tóc, bệnh tật và cái chết.
Luật hòa sắc
Có thể loại hẳn màu đen ra khỏi bảng pha màu (palette) sơn dầu như các hoạ sĩ ấn tượng đã làm, nhưng khó mà loại màu trắng, nếu không nói là không thể. Màu trắng là màu được dùng nhiều nhất trong sơn dầu, để làm sáng các hòa sắc, tạo khối khi vẽ lót, nhấn các điểm sáng nhất v.v. Khi mới bắt đầu vẽ sơn dầu cách đây chừng 40 năm, tôi đã dùng gần hết tube trắng để bồi nền canvas bằng vải bao tải, nên đến khi vẽ thì thiếu, không tìm đâu ra trắng nữa. Tôi đành phải dùng … vàng chanh thay trắng. Kết quả là sau khi xem chân dung cô gái tôi vẽ, một đại ca ký họa chân dung đã kêu lên: “Một con đầm ho lao!” * Khoảng 146 – 66 triệu năm trước, đại dương bao phủ phần lớn bề mặt trái đất. Xác các sinh vật biển hóa thành vôi chất cao hàng chục thước. Trải bao “đá nổi, lông chìm, đồng khô, hồ cạn” biển nhường chỗ cho đất nổi lên, các lớp hóa thạch được phơi bày, chủ yếu gồm calcium carbonate CaCO3 mà ta gọi là phấn. Màu trắng trong tự nhiên đã xuất hiện lần đầu tiên như vậy, nhiều đến nỗi cả một thời kỳ dài 80 triệu năm được gọi là kỷ Bạch Phấn (phấn trắng). Ngoài ra còn kaolin hay đất sét trắng tức hydrated aliminium silicate Al2O3•2SiO2•2H2O có trong khoáng chất kaolinite Al2Si2O5(OH)4, và thạch cao tức calcium sulfate dihydrate CaSO4•2H2O. Đó là ba màu trắng đầu tiên được sử dụng trong lịch sử kể từ khi con người bắt đầu biết vẽ. Người ta tìm thấy phấn trắng trên các bức họa trong hang động thời tiền sử. Các bộ lạc thổ dân ngày nay vẫn dùng vôi trắng vẽ lên cơ thể. Nhược điểm của các hạt màu trắng khoáng chất là càng thêm chất kết dính vào để làm màu lỏng hơn thì màu càng trở nên bớt đục, chuyển dần sang màu trong, nên độ trắng giảm dần đi. Đến khi thêm dầu lanh vào thì phấn, thạch cao, và kaolin mất cả tính trong và biến thành một hợp chất có màu đục nhờ, nhìn muốn nản. Vì thế con người phải vắt óc nghĩ cách tổng hợp màu. Trắng chì (lead white) và lam Ai Cập (Egyptian blue) là hai màu đầu tiên được con người tổng hợp từ khoảng hai ngàn năm trước CN. Ngày nay, bột màu trắng (pigment white, viết tắt là PW) có tới trên 40 loại trong đó có 33 loại được đánh số từ PW1 tới PW33 theo phân loại của chỉ số màu quốc tế (Color Index International)2 do hội thợ nhuộm và thợ màu (Society of Dyers and Colorists) của Anh và Hội các nhà hóa học ngành dệt và màu sắc (American Association of Textile Chemists and Colorists) của Mỹ đề xuất. Theo bảng này phấn trắng có ký hiệu PW18, kaolin: PW19, và thạch cao: PW25. Những màu trắng trong sơn dầu thường gồm 9 loại: 1) trắng chì (lead white) hay trắng bạc (silver white) (PW1), Họa sĩ vẽ sơn dầu cần hiểu rõ tính chất của từng loại trắng này để biết dùng đúng cách và đúng chỗ, tạo ra hiệu quả mong muốn, và tránh được các hiện tượng như bong, nứt, hay đổi màu bất thường. Dưới đây là tính chất của các loại màu trắng thông dụng trong sơn dầu. 1. Trắng chì (Lead white) Trắng chì (PW1), còn có tên là trắng bạc (silver white), flake white (trắng vẩy), hay trắng Cremnitz (Cremnitz white) (từ tên của một thành phố ở Áo nổi tiếng vì làm trắng chì hảo hạng vào thế kỷ XIX), là màu trắng tổng hợp cổ xưa nhất và là màu trắng nhất trong tất cả 3 màu trắng từ chì. Hai màu kia là sulphate chì (PW2) và basic sulphate chì (PW3) đều ngả xám. Người ta tổng hợp trắng chì bằng cách ngâm chì vào hơi bốc lên từ dấm (acetic acid), khiến xảy ra phản ứng hóa học chuyển chì thành basic carbonate chì (alkaline lead carbonate) 2PbCO3•Pb(OH)2, tức gồm 2 phần carbonate chì PbCO3 và 1 phần hydroxide chì Pb(OH)2, bám trên mặt chì thành một lớp cùi trắng. Lớp cùi trắng sau đó được cạo ra thành một đống vẩy trắng (vì thế trắng chì có tên trắng vẩy). Các vẩy trắng được phơi khô và tán thành bột rồi được nghiền với dầu lanh để tạo ra màu trắng sơn dầu. Vào thế kỷ XVII người Hà Lan đã phát triển phương pháp này thành công nghệ ngâm dấm ủ phân có tên là Dutch stack method (Phương pháp đánh đống kiểu Hà Lan) (trang 19 trích dẫn3). Từ thế kỷ XIX, các phương pháp mới đã thay thế Dutch stack method. Trắng chì được tổng hợp và nghiền bằng các phương pháp hiện đại ngày nay có độ tinh khiết cao hơn, hạt màu mịn hơn và đồng nhất hơn xưa rất nhiều. Trắng chì có độ phủ khá cao (opaque tức đục) nhờ có chừng 30% hydroxide chì Pb(OH)2, màu trắng ấm, có sắc long lanh gần như ngọc trai, khô nhanh, kết dính tốt. Một số trắng chì trên thị trường, đặc biệt là của Tàu hay Ấn Độ, tuy được gọi là trắng chì nhưng không phải là basic carbonate chì mà là carbonate chì (PbCO3), thiếu hẳn hydroxide chì (Pb(OH)2), nên không có những phẩm chất như của silver white hay flake white thứ thiệt. Trắng chì được trộn trong dầu tạo màng (như dầu lanh) tạo ra xà phòng chì, có ưu điểm làm sơn dẻo, dễ vẽ, khô nhanh, tạo ra màng dẻo dai, rất ít nứt. Vì thế trắng chì từng là màu không thể thiếu để bồi nền và vẽ lót từ khi sơn dầu được tái phát hiện tại châu Âu, và là màu trắng duy nhất được dùng cho tới thế kỷ XIX. Nhược điểm của trắng chì là rất độc, ngả đen khi gặp khí sufure (hydrogen sulfide H2S, mùi trứng thối) vì tạo thành sulfide chì PbS, trở nên trong theo thời gian, vì thế nếu phủ một lớp mỏng trắng chì thì dần dần màu hay hình vẽ bên dưới sẽ hiện ra khi lớp trắng chì bị mất độ phủ. Hiện tượng hình hiện ra như thế có tên là pentimento. Trên thực tế, hiện tượng ngả đen chỉ xảy ra khi trắng chì không được dầu tạo màng hay varnish che chở. Còn nhược điểm trở nên trong hầu như không bộc lộ khi trắng chì được vẽ dày hoặc trộn với các màu khác (như trong tranh của Rembrandt chẳng hạn). Trắng chì để lâu trong tối bị ngả vàng nhưng sau khi phơi sáng lại thì sắc vàng dần dần biến mất. Các sách kỹ thuật vẽ sơn dầu thường cảnh báo một số màu chứa lưu huỳnh (S) hay muối lưu huỳnh như đỏ thần sa (vermillion tức sulfide thủy ngân -HgS), tất cả các màu cadmium (chứa cadmium sulfide), ultramarine (sodium sulphosilicate) có thể bị đen hay xỉn đi khi trộn với trắng chì vì tạo ra sulfide chì. Nhưng khi trắng chì được trộn với dầu, hiện tượng đen hay xỉn như vậy không xảy ra. Johannes Vermeer từng pha trắng chì với ultramarine làm từ đá lapis lazuli, tạo nên những hòa sắc tuyệt đẹp. Ngoài ra chất lượng trắng chì ngày nay đã vượt xa chất lượng cách đây 1 – 2 thế kỷ. Tôi thường trộn trắng chì (Holbein hoặc Kusakabe) với ultramarine (Lefranc & Bourgeois) nhưng chưa từng thấy hiện tượng đen xỉn mà sách đã dẫn. Lịch sử đã ghi nhận không ít trường hợp ngộ độc trắng chì, đặc biệt là bụi trắng chì. Trong nhiều thế kỷ, để có làn da trắng, các quý bà châu Âu thường dùng phấn trang điểm Venetian ceruse, thực chất là trắng chì (carbonate chì). Còn các quý ông tha hồ hôn hít làn da tẩm thuốc độc đó. Ngộ độc trắng chì gây xanh xao, vàng da, rụng tóc, hỏng răng, táo bón, tiêu chảy, và nếu bị nhiễm lâu dài thì có thể chết. Trường hợp điển hình là nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhất của Anh quốc, mất năm 1603. Phấn trang điểm Venetian ceruse mà bà thường xuyên dùng được cho là một trong những nguyên nhân đã gây nên cái chết của bà. Nhà soạn nhạc lừng danh Ludwig van Beethoven, người từng dùng nhiều rượu bị nhà hàng lén pha chì, cũng được cho là bị điếc và chết do ngộ độc chì. Người ta tìm thấy hàm lượng chì trong tóc của Beethoven cao hơn người thường 100 lần. Trắng chì cũng là một trong các giả thuyết gây nên bệnh điếc, đau mắt của danh họa Francisco Goya, người luôn tự nghiền màu vẽ cho mình. Vì chì độc như vậy nên từ năm 1977 Mỹ đã cấm sản xuất sơn, màu, đồ chơi, đồ gỗ như bàn ghế giường tủ có chì. Châu Âu cũng hạn chế sản xuất sơn có chì, trừ số lượng nhỏ dành cho họa sĩ. Anh quốc đã cấm bán sơn có chì từ năm 1992, trừ cho các chuyên gia, vì thế hãng Winsor & Newton chỉ bán trắng chì trong hộp sắt 250 ml tại châu Âu. Các tube trắng bạc (silver white) và trắng vẩy (flake white) của hãng này ngày nay được nghiền từ trắng titanium (PW6) pha với trắng kẽm (PW4). Vì thế khi bạn mua màu trắng, chớ vội mừng khi đọc thấy cái tên, mà cần nhìn kỹ trên tube màu xem đó là PW1 (trắng chì), PW4 (trắng kẽm), hay PW6 (trắng titanium), hay là một sự pha trộn các bột trắng đó. 2. Trắng kẽm (Zinc white) 3. Trắng titanium (Titanium white) Trắng titanium tinh khiết khi khô trong dầu tạo ra một màng yếu. Vì thế người ta thường trộn trắng titanium với một hay hai màu trắng khác như trắng kẽm hay trắng chì. Trắng titanium cũng được pha với bột màu trơ như baryte (chứa barium sulfate BaSO4 tự nhiên, ký hiệu: PW22) trong màu bán cho sinh viên, tuy giá rẻ, song chất lượng thấp vì thiếu cả độ rực rỡ lẫn độ phủ. Trắng titanium khô chậm hơn trắng chì nhưng nhanh hơn trắng kẽm nhiều. Màng trắng titanium có thể trường tồn hàng thế kỷ nếu để trong tối, nhưng ở ngoài sáng trắng titanium cũng như tất cả các màu khác bị tia cực tím làm thoái hóa. Tuổi thọ của màng film vì vậy phụ thuộc vào chất lượng chất kết dính, điều kiện phơi sáng, chất lượng lớp varnish bảo vệ, v.v. Vì độ nhuộm của trắng titanium rất mạnh nên khi dùng phải biết kiềm chế để các màu khác không bị trắng titanium lấn át. 4. Trắng nền (Foundation white) 5. Trắng gốm (Ceramic white) 6. Trắng xà cừ (tiếng Anh: Iridescent white; tiếng Pháp: blanc nacré) 7. Trắng bất biến (Permanent white) 8. Trắng khô nhanh (Quick drying white) 9. Trắng lót nền nhanh (Quick base white) Gần đây các nhà sản xuất họa phẩm đã đồng loạt loại trắng kẽm ra khỏi trắng lót nền cho canvas (foundation white và quick base white). Trắng lót nền ngày nay gồm trắng chì và/hoặc trắng titanium trong dầu lanh. Hãng làm canvas nổi tiếng của Nhật – Funaoka Canvas Products Corporation – thêm lithopone (PW5) và đất sét trắng (kaolin) vào nền sơn để tăng độ phủ, độ dai và khả năng chịu nhiệt. Lithopone là hợp chất của khoảng 30% barium sulfate (BaSO4) và 70% zinc sulfide (ZnO). Lithopone ngả xám dưới sánh sáng mặt trời nhưng khi vào tối thì trắng lại. * Nếu mới bắt đầu vẽ sơn dầu, có thể bạn thấy trắng nào cũng như nhau. Nhưng khi đã đi sâu vào sơn dầu, đặc biệt nếu vẽ theo kỹ thuật vẽ nhiều lớp của các bậc thầy cổ điển, bạn sẽ nhận ra sự khác nhau rất lớn về độ phủ, độ trong, độ dẻo, độ hút dầu, độ nóng lạnh, các chuyển sắc độ v.v. giữa trắng chì (trắng bạc), trắng titanium và trắng kẽm. Trắng chì là màu trắng cực kỳ quan trọng, tuy độc. Trắng chì không đục như trắng titanium, vừa xốp, ấm lại đủ độ trong cần thiết, nên khi vẽ đặc thì đục, nhưng khi chuyển sang mỏng thì lại trong, cho phép tạo những chuyển đổi hòa sắc rất đẹp khi vẽ da thịt, lên khối và vẽ các phản quang một cách dễ dàng, mà không thứ trắng nào có thể thay thế được. Đặc biệt, nếu vẽ theo kỹ thuật nhiều lớp thì trắng chì là màu trắng không thể thiếu, nhất là khi vẽ lót (trắng nền). Trắng titanium rất có hiệu quả khi vẽ các điểm nhấn sáng vì có độ phủ và độ trắng mạnh nhất. Nhưng nếu dùng quá nhiều trắng titanium, màu sẽ như bị tẩm vôi và “bẹt”. Trắng kẽm (oxide kẽm) là màu trong, khét tiếng vì là nguyên nhân gây bong nứt khi vẽ dày, chỉ nên được dùng để vẽ láng. Thậm chí nếu bạn có loại hẳn trắng kẽm ra khỏi bảng pha màu thì bạn cũng không mất gì nhiều. * Phụ lục Tính chất của một số màu trắng sơn dầu của hãng Holbein Artists’ Colors
Độ nhuộm và độ phủ của một số màu trắng (so với trắng kẽm)
Độ trắng của một số màu trắng
W: Xếp hạng theo thang Hunter ngay sau khi dùng W’: Độ trắng dựa trên hiệu số phản quang màu lam và màu lục Chú ý: Các con số là kết quả đo bằng máy, nhưng khi nhìn bằng mắt thường thì trắng titanium là màu trắng nhất, trong khi trắng kẽm và trắng gốm có sắc lam.
Độ trong (transparency) của một số màu trắng (được đo bằng cách phủ một lớp màu trắng dày 0.1mm lên giấy thử và được thề hiện bằng hiệu số giữa màu trên nền đen và nền trắng, hiệu số càng lớn thì màu càng trong)
Độ ngả vàng của một số màu trắng (được quết thành màng film dày 0.15 mm trên canvas trắng)
Tốc độ khô của một số màu trắng (tính bằng ngày tại 250C)
– 17. 4. 2013 © Nguyễn Đình Đăng, 2013 – Tác giả giữ bản quyền. Bài chuyên khảo này được viết với mục đích phổ biến kiến thức và kinh nghiệm. Bạn đọc có thể lưu giữ để sử dụng cho cá nhân mình. Mọi hình thức sử dụng khác như in ấn, sao chép lại bài viết này, dù là một phần hay toàn bộ, để phát hành trong các ấn phẩm như sách, báo chí, luận văn, hay nhằm mục đích thương mại (kể cả tại các trang thư viện điện tử trên internet mà để đọc được hay tải xuống người đọc phải trả tiền để mở tài khoản) v.v. đều vi phạm bản quyền nếu không nhận được sự đồng ý bằng văn bản của tác giả.
* Chú thích: 1. I. Newton (1671) A Letter of Mr. Isaac Newton, Professor of the Mathematiks in the University of Cambridge; Containing His Theory About Light and Colors: Sent by the Author to the Publisher from Cambridge, Febr. 6. 1671/72; in Order to be Communicated to the R. Society, Philosophical Transactions of the Royal Society of London 6 (69–80): 3075–3087. 2. Xem Color of art pigment database. 3. Tôi có bàn qua về màu trắng tại trang 18 và 19 trong chuyên khảo “Sơ lược về kỹ thuật vẽ sơn dầu” (2009), 45 trang. 4. M.F. Mecklenburg, Determining the acceptable ranges of relative humidity and temperature in museums and galleries, Part 2, (2007). 5. Y. Maor, A. Murray and B. Kaiser, Using XRF for semi-quantitative analysis in a study of delaminating paint, 9th Int’l Conference on NDT of Art, Jerusalem, 25 – 30 May 2008. 6. Paint and coating testing manual, Chapter 19: White pigments (by J.H. Braun) (1995) p. 159. 7. Paint and coating testing manual, Chapter 26: Pearlescent pigments (by C. Rieger) (1995) p. 299.
* Bài liên quan: – Nền móng của tranh sơn dầu
Ý kiến - Thảo luận
19:33
Saturday,20.4.2013
Đăng bởi:
Nguyễn Đình Đăng
19:33
Saturday,20.4.2013
Đăng bởi:
Nguyễn Đình Đăng
@Quỳnh Mây:
Trên thực tế các hạt màu trong màu vẽ không phải là các màu sơ cấp lý tưởng. Vì thế bảng pha màu (hay vòng màu sắc) chỉ có tác dụng định hướng. Hoạ sĩ chỉ thực sự hiểu màu pha trộn với nhau như thế nào dựa trên kinh nghiệm của mình. Bảng pha màu của hoạ sĩ: -------------------------------- Bảng pha màu (hay vòng màu sắc) của hoạ sĩ cũng tuân theo quy luật trừ màu nhưng hơi khác bảng pha màu của màu hoá học, phẩm nhuộm và sơn một chút. Hoạ sĩ coi 3 màu đỏ (red, R), vàng (yellow, Y) và lam (blue, B) là 3 màu sơ cấp (cơ bản), còn các pha trộn hai cặp màu trong 3 màu sơ cấp đó với nhau là màu thứ cấp. Như vậy 3 màu thứ cấp là: Đỏ + Vàng -> Da cam (Orange) Vàng + Lam -> Lục (Green) Lam + Đỏ -> Tía (Purple) Thông thường vòng màu sắc được xếp theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiề ưkim đồng hồ: Đỏ, da cam, vàng, lục, lam, tía, trong đó màu đỏ đối đầu (><) với màu lục, da cam >< lam, vàng >< tía. Những màu đối đầu nhau được gọi là các màu bù nhau (complementary). Trộn hai màu bù nhau theo ti lệ bằng nhau thì được màu đen hoặc gần đen (xám, nâu). Trộn màu sơ cấp với màu thứ cấp cạnh nó thì được màu tam cấp (tertiary). Đó là bảng pha màu thường được dạy cho các học sinh học vẽ. Màu đẹp hay xấu trước hết phụ thuộc vào chất lượng màu vẽ. Muốn có các hoà sắc đẹp thì trước hết phải dùng màu chất lượng cao, cũng như muốn có tiếng đàn hay thì đàn phải tốt. Có giỏi đến mấy mà vớ phải hoạ phẩm tồi hay nhạc cụ dở thì cũng bó tay. Vì thế hoạ sĩ nên cố dùng những hoạ phẩm tốt nhất mà mình có thể mua được.
13:23
Saturday,20.4.2013
Đăng bởi:
Nguyễn Đình Đăng
@ Quỳnh Mây:
13:23
Saturday,20.4.2013
Đăng bởi:
Nguyễn Đình Đăng
@ Quỳnh Mây: Bài đã đăng
» Xem tiếp... |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Trên thực tế các hạt màu trong màu vẽ không phải là các màu sơ cấp lý tưởng. Vì thế bảng pha màu (hay vòng màu sắc) chỉ có tác dụng định hướng. Hoạ sĩ chỉ thực sự hiểu màu pha trộn với nhau như thế nào dựa trên kinh nghiệm của mình.
Bảng p
...xem tiếp