|
|
|
|||||||||||||
Nghệ sĩ thế giớiTừ học viện, ra thị trường (phần 1) 10. 11. 10 - 8:35 pmNguyễn Thế Sơn
Cùng với sự nở rộ của các loại hình nghệ thuật đương đại Trung quốc, hàng ngàn gallery lớn nhỏ, hàng chục bảo tàng nghệ thuật đương đại đã được mở ra trên khắp các thành phố lớn ở Trung quốc. Một thị trường với môi trường thúc đẩy mạnh mẽ cho nghệ thuật đương đại phát triển như vậy, câu hỏi đặt ra là đằng sau sự phát triển rầm rộ đó, vai trò của hệ thống giáo dục, đào tạo nghệ thuật đương đại đó ra sao? Sự hình thành, phát triển và xu hướng hoạt động của nó liên quan thế nào đối với môi trường nghệ thuật đương đại Trung Quốc ngoài xã hội? Nói cách khác, con đường để nghệ thuật đương đại đi vào học viện và từ đó bước ra ngoài xã hội đóng góp vào thị trường nghệ thuật là như thế nào? Để đi tìm câu trả lời về vấn đề nghệ thuật đương đại Trung quốc đã vào học viện thế nào, tôi chọn Học viện Mỹ thuật Trung ương làm tâm điểm cho việc khảo sát nghiên cứu của mình. Trung Quốc có 8 học viện mỹ thuật lớn, nổi tiếng nhất là Học viện Mỹ thuật Trung ương Bắc Kinh. Ngoài Học viện Mỹ thuật Trung ương (Bắc Kinh), 7 học viện còn lại phân bố đều tại các khu vực là Học viện Mỹ thuật Trung Quốc (Triết Giang), Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn (Thẩm Dương, Đại Liên), Học viện Mỹ thuật Tứ Xuyên, Học viện Mỹ thuật Quảng Châu, Học viện Mỹ thuật Thiên Tân, Học viện Mỹ thuật Hồ Bắc, Học viện Tây An. Trong bài viết này, tôi lấy dẫn chứng khảo sát ở học viện mỹ thuật Trung ương (CAFA) – một cái nôi quan trọng nhất trong việc hình thành, hoạt động và đóng góp cho nền nghệ thuật đương đại Trung quốc những năm gần đây. Như chúng ta đã biết, nghệ thuật đương đại Trung Quốc cứ mỗi 10 năm lại có những thay đổi lớn về cả cấu trúc và xu hướng. Qui luật trên tôi đã rút ra được qua những khảo sát và ghi nhận trong những bài nghiên cứu trước. Có thể tạm chia thành 3 thời kỳ phát triển: 1979-1989, 1989-1999, 1999-2009 Tại sao lấy mốc năm 2000 ? Chính những qui tắc bên ngoài và sự phụ thuộc vào các qui tắc đó buộc Trung quốc phỉa mở cửa để thu hút nhân tài. Những nhân tài này có thể là những người trong nước được đào tạo ở Mỹ, châu Âu hay cũng có thể được đào tạo trong nước, nhưng điểm chung là đều nằm ngoài hệ thống. Đến những năm cuối thập kỷ 90 đặc biệt là từ năm 2000, các cơ quan nhà nước, công ty quốc doanh, các trường đại học đã mở rộng cửa chào đón họ. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách sử dụng nhân tài. Sự mở cửa này hoàn toàn không diễn ra một cách tự phát, mà từ cấp lãnh đạo cao nhất, những người nhiều lần nhấn mạnh rằng Trung quốc cần có những tài năng và họ đảm bảo rằng các tài năng ấy khi trở về đại lục sẽ có thu nhập ngang tầm thế giới. Điều này có nghĩa là người tài sẽ về khi thấy có phần đóng góp trong sự phát triển của đất nước. Chính vì những thay đổi cơ bản trong đường lối chính sách đó, có thể thấy được tầm quan trọng của mốc thời gian năm 2000 trong việc chính thức hóa sự xuất hiện các loại hình nghệ thuật thử nghiệm, đa phương tiện trong môi trường học viện những năm sau 2000. Cụ thể những thay đổi đó ra sao chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau. Trước hết, chúng ta cùng nhìn lại quá trình manh nha xuất hiện của các loại hình nghệ thuật thực nghiệm, đa phương tiện, chúng đã tác động như thế nào đến môi trường học viện những năm trước 2000.
Sự xuất hiện và ảnh hưởng của nghệ thuật đương đại với môi trường học viện Trong giai đoạn này, tất cả các thực hành nghệ thuật thử nghiệm trên mọi loại hình của các nghệ sỹ gần như đều bị coi là đi ngược lại với những trường phái của học viện (hay còn gọi là xu hướng nghệ thuật phản học viện, phản truyền thống). Bắt đầu từ phong trào thực hiện hành vi mang đốt những tranh sơn dầu vẽ theo lối kinh viện của các nghệ sỹ Hạ môn, Phúc kiến trong “phong trào 85” (phản học viện), cho đến những dạng thực hành nghệ thuật hành vi của các nghệ sỹ tầm cỡ như Ngải Vị Vị (Ai Wei Wei) bằng cách đập vỡ các bình cổ đời nhà Hán trong seri ảnh Thả xuống một chiếc bình đời Hán (phản truyền thống). Sự nở rộ hàng loạt các dạng triển lãm thực hành khái niệm nghệ thuật mới lúc đó (giai đoạn cuối những năm 80 đầu những năm 90) đã như gáo nước lạnh dội thẳng vào nền tảng giáo dục nghệ thuật của học viện vốn được coi là cái nôi của nghệ thuật kinh viện Trung quốc. Làn sóng đó đã âm thầm tác động vào tư tưởng, vào tư duy sáng tạo của những người trẻ tuổi, khao khát sự thay đổi trong môi trường học viện. Và sau đó xuất hiện một đại diện tiêu biểu là giáo sư Từ Băng. Cuối những năm 80, khi đang là giảng viên của khoa Đồ họa, ông đã âm thầm khắc những chữ triện vô nghĩa trong suốt 4 năm trời, dùng các bộ thủ trong chữ Hán khắc ra những Hán tự vô nghĩa mà không người Trung quốc nào đọc hiểu. Để rồi sau đó ông cho ra đời tác phẩm sắp đặt hoành tráng “Sách trời ” Khái niệm ông đưa ra là sự hoài nghi về giá trị của văn tự. Đứng trước tác phẩm của ông, mọi người đều bình đẳng, đều không thể hiểu được ý nghĩa của những con chữ đó. Cách thực hành nghệ thuật khái niệm của Từ Băng thời bấy giờ đã làm thất vọng bao giáo sư cao niên trong học viện, vốn trông chờ một con đường hoạt động nghệ thuật tạo hình kinh viện ở một con người tài hoa đầy triển vọng như ông. Tác phẩm của ông như một sự phản kháng lại hệ thống đào tạo nghệ thuật gò bó của học viện thời bấy giờ. Đương nhiên lúc đó tác phẩm của ông chưa được ghi nhận đúng giá trị của nó, cũng như rất nhiều nghệ sỹ trẻ có khát vọng thay đổi đã phải tiếp tục tìm tòi, thực hành những dạng nghệ thuật đó ở những nước phương Tây. Chính sự kiếm tìm và thành công của các nghệ sỹ như Từ Băng, Sài Quốc Cường, Ngải Vị Vị, Trương Đại Lực… ở nước ngoài là những tiền đề và những nhân tố hết sức quan trọng trong việc hình thành và chính thức hóa công nhận sự hiện diện của các loại hình thử nghiệm mới trong môi trường học viện những năm sau 2000. Thời gian sau năm 1989, sau một loạt các phong trào thực hành nghệ thuật trình diễn, sắp đặt, happening… rầm rộ ở những nơi công cộng trước đó, tình hình hoạt động nghệ thuật đã trở nên yên ắng hơn, đi vào chiều sâu hơn. Các nhóm hoạt động nghệ thuật thực nghiệm xuất phát từ trào lưu 85 ở Hàng Châu, Hạ Môn trước đó, sau một thời gian tạm lắng sau sự kiện triển lãm nghệ thuật đương đại Trung quốc “không quay đầu lại ”(No return), các nghệ sỹ đã dần dần về tập trung thành những nhóm hoạt động với nhau lập nên những làng nghệ thuật, khu nghệ thuật đầu tiên ở Bắc Kinh như Viên Minh Viên (YUAN MING YUAN), sau đó là khu nghệ thuật Tống Trang (SONG ZHUANG) vào giữa những năm 90. Để rồi từ đó hình thành lên một loạt những tên tuổi tiên phong cho nghệ thuật đương đại Trung quốc, bắt đầu xuất hiện những cái tên Nhạc Mẫn Quân (Yue Min Jun), Trương Hiểu Cương (Zhang Xiao Gang), Phương Lực Quân (Fang Li Jun), Vương Quảng Nghị (Wang Guang Yi), bốn người này hình thành nên nhóm “Tứ đại Thiên Vương ” của nghệ thuật đương đại Trung quốc. Tiếng tăm của họ nổi như cồn trong các cuộc triển lãm, các bộ sưu tập trong các bảo tàng nghệ thuật và các nhà đấu giá nổi tiếng trong và ngoài nước. Những hoạt động sôi nổi ở “bên ngoài” thời điểm đó đã tác động không nhỏ đến tâm thế của môi trường học viện, làm tiền đề tạo nên những chuyển biến từ bên trong học viện mấy năm sau đó. Chính vào lúc khu nghệ thuật Tống Trang (Song Zhuang) ra đời và đi vào hoạt động mạnh mẽ cũng là lúc Học viện nghệ thuật Trung ương ở địa điểm Vương Phủ Tỉnh với quy mô hạ tầng hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu đạo tạo mới, đã xin chuyển địa điểm đến chỗ rộng rãi hơn ở khu Wang Jing. Trong thời gian quá độ 6 năm qui hoạch thiết kế lại ngôi trường mới, cũng chính là lúc các khoa nhỏ trong Học viện tạo hình bắt đầu thử nghiệm thêm những mô hình đào tạo mới, tái cơ cấu xáp nhập trường, mở thêm học viện thiết kế, mở thêm xưởng số 5 trong khoa sơn dầu chuyên thực hiện chất liệu tổng hợp, mở thêm xưởng nhiếp ảnh trong khoa đồ họa. Những sự thí điểm đó là bước đi ban đầu trong quá trình định hình khoa nhiếp ảnh đa phương tiện (photography and new media) và khoa nghệ thuật thực nghiệm (experimental art) sau này. *
Ý kiến - Thảo luậnBài đã đăng
» Xem tiếp... |
|||||||||||||||
|