|
|
|
|||||||||||||
Trường pháiMannerism, bài 2: Lạnh lùng, lắt léo, và… đẹp 18. 01. 14 - 7:09 amAnh Nguyễn biên soạnTiếp theo bài 1 Một họa sĩ khác, Jacopo da Pontorma, chọn một chủ đề kịch tính hơn cho tác phẩm Mannerism của mình: cảnh hạ Chúa Jesus từ cây thập giá. Trong bức “The deposition from the Cross”, các nhân vật cũng được xử lý bằng Figura Serpentinata, nhưng có nhiều điều còn đập vào mắt người xem hơn: bố cục hoàn toàn hỗn loạn, các nhân vật trong tranh như bị thả rơi, chồng chất lên nhau, phối cảnh kì quặc. Biến mất hoàn toàn những tỉ lệ vàng, kim tự tháp, các nhân vật bị dồn ép trong một khoảng không chật chội, chật đến nỗi thân hình họ che khuất hoàn toàn cây thập giá, chỉ có một nhúm mây ló ra ở góc trái cho ta biết đây là cảnh ngoài trời. Ánh sáng trong tranh không phải ánh sáng dịu dàng, tôn vẻ đẹp, mà là ánh sáng flash chói gắt, làm hằn lên vẻ mặt khủng hoảng, đau khổ, thảng thốt của những con người đối mặt với nỗi đau mất Chúa. Khai thác các trạng thái tâm lý đến cùng cực là một trong những “chuyên môn” của các Mannerist. Kì lạ thay, song song đó, Mannerism lại có một thái cực hoàn toàn khác: lạnh lùng. Vì những tín đồ của Mannerism chính là các nhà quý tộc và trí thức ở châu Âu, hội họa Mannerism là tổng hòa của sự chăm chút chi tiết đến mức thái quá và thái độ (cố tình) vô cảm. Nói về sự lãnh đạm, không ai có thể vượt qua các nhân vật trong tranh Bronzino. Dĩ nhiên đối tượng cho tranh chân dung của Bronzino toàn là các nhà quý tộc. Từ cô bé cậu bé đến ông già bà cả, tất cả đều phủ kín trong nhung lụa, ngọc ngà, gương mặt phẳng lặng như băng, và đôi mắt thờ ơ nhiều khi không buồn nhìn thẳng vào khán giả.
Nếu Mannerism đứng trên một chiếc kiềng ba chân, thì hai thái cực cảm xúc dữ dội/vô cảm đã chiếm mất hai. Cái chân còn lại là sự tinh tế về mặt trí tuệ của Mannerism – nó là khía cạnh có tính trung hòa lại những mâu thuẫn nội tại của Mannerism, mặc dù chính nó nhiều khi bị đẩy lên thái quá đến mức khó hiểu – không thể hiểu. Nếu Phục Hưng nhấn mạnh vào chân-thiện-mỹ, thì Mannerism lại đau đáu với các câu hỏi: làm thế nào để tác phẩm phô bày được mức độ hiểu biết của cả nghê sĩ lẫn người bảo trợ? Làm thế nào để tác phẩm có ý nghĩa thâm thúy mà không dựa vào hệ thống biểu tượng đã cũ mòn? Làm thế nào để người họa sĩ thoát khỏi vai trò thợ thủ công mà thực sự trở thành một trí thức, đứng ngang hàng với các học giả, nhà văn thơ? Benvenuto Cellini đã trả lời tất cả những câu hỏi đó bằng một lọ đựng muối. Thường được gọi là Mona Lisa của điêu khắc, lọ đựng muối bằng vàng tráng men được nhà vua Francis đệ Nhất ủy thác cho Benvenuto Cellini chế tác khoảng năm 1540. Phong cách Mannerism được biểu lộ qua sự hình dáng thon dài, tư thế phức tạp, không cân bằng, của hai nhân vật. Nam thần là thần biển cầm đinh ba và vỏ ốc, ngự trên con tàu chở muối. Nữ thần là thần đất, một tay ôm bầu ngực (biểu tượng cho sự nuôi dưỡng của đất mẹ), một tay cầm chiếc sừng dê kết hoa quả (biểu tượng của nông sản dồi dào phong phú), ngự trên đền thờ tí hon đựng hạt tiêu. Xung quanh hai vị thần là các loài động, thực vật thủy sinh xinh đẹp. Benvenuto Cellini đã truyền tải được kết tinh của điêu khắc vào một tác phẩm rất nhỏ về kích cỡ, song không mất đi sự hoành tráng mà lại tăng thêm phần tinh tế. Ẩn dụ hai vị nam nữ thần biển – đất tương ứng với nguồn gốc của muối – tiêu cho thấy trình độ và sự nhạy cảm của người nghệ sĩ. Cellini cũng tự mô tả tác phẩm này là sự gắn kết hài hòa của biển cả và đất liền. Còn giá trị của nó là chứng thực cho cả tài năng Cellini lẫn quyền lực của vua Francis. Ngày nay muối là một món gia vị giản dị nhất trong bếp, song trong lịch sử nhân loại vị trí của muối không hề khiêm tốn: từ tiền lương (salary) trong tiếng Anh xuất phát từ salarium, muối trong tiếng Latin. Một tác phẩm tiêu biểu nhất của Mannerism – cũng là tác phẩm làm đau đầu các nhà mỹ thuật năm này qua tháng khác – là Ngụ ngôn Vệ Nữ của Bronzino (Allegory of Venus). Nó còn được biết đến với những cái tên khác như Thắng lợi của Vệ Nữ, hoặc Vệ Nữ, thần ái tình, sự điên rồ, và thời gian. Ta lại bắt gặp trong tranh những đặc điểm đã quen thuộc của Mannerism. Ít nhất bảy nhân vật bị nhét vào môt khối hộp, trên dưới phải trái chen chúc – check. Thân hình của Cupid dài một cách bất thường, uốn éo như vũ công uốn dẻo, các ngón tay ẻo lả như tay con gái – check. Làn da trắng lạnh lẽo như cẩm thạch bất chấp màu má ửng hồng; thân hình Vệ Nữ giống như một bức tượng xa cách, không thể chạm đến được hơn là một cơ thể sống – check. Nhưng nếu chỉ có vậy thì các nhà mỹ thuật Panofsky, Friedlander, Lavey, Hope đã không phải cãi nhau liên tục về ý nghĩa của bức tranh, chủ yếu xoay quanh danh tính của các nhân vật – một trò chơi không có hồi kết. Vệ Nữ là Vệ Nữ thì không còn phải bàn cãi – một tay nàng cầm quả táo vàng của Paris, bên trái là con bồ câu biểu tượng cho tình yêu. Cupid lưng đeo cung tên, một tay ôm đầu, một tay vuốt ve bộ ngực mẹ, miệng hôn lên miệng Vệ Nữ – khó có họa sĩ Cổ điển nào, cả trước và sau Bronzino, dám mô tả trắng trợn một cảnh cấm kị đến thế. Và bây giờ danh tính của các nhân vật trở nên mù mờ. Thiên thần tươi cười tung cánh hoa hồng, chân dẫm lên gai, có thể là Jest (đùa cợt), Folly (điên rồ), hoặc Pleasure (khoái lạc). Cô gái bé xinh ở bên phải, phía sau thiên thần, tay cầm mật ong ngọt ngào nhưng cái đuôi lại là đuôi rắn, có thể là Pleasure, hoặc Fraud (lừa dối). Ông già vạm vỡ, cánh tay vung ra kéo tấm mành che đi cảnh chướng tai gai mắt của Vệ Nữ và con trai lúc được coi là Time (thời gian), lúc là Virtue (đạo đức). Bà già xám ngoét tay ôm đầu ở bên trái, gần mông của Cupid, có thể là Jealousy (ghen tuông), Despair (tuyệt vọng), thậm chí Syphilis (bệnh giang mai). Khó hiểu hơn hết là nhân vật có gương mặt vô hồn ở góc trái trên cùng, đối diện với ông già thời gian, liệu đó là Virtue (đạo đức), Oblivion (sự lãng quên), hay là Night (bóng đêm)? Còn nhiều chi tiết cần thảo luận như hai tấm mặt nạ trống rỗng nằm ở góc dưới bên phải, cành nguyệt quế ở trên cùng, cũng như có người lại cho rằng hình ảnh Venus cầm táo và ngồi cạnh đuôi rắn là một sự gợi nhớ đến tội lỗi của Eve… Bronzino đã quá thành công khi tạo ra một câu đố không có lời giải. Trái với những biểu tượng của Renaissance tuy phức tạp song một là một, hai là hai, Mannerism thích đánh đố, trêu ghẹo, chọc tức người xem. Thí dụ như với bức tranh trên, một trong những cách đọc nó là sự chuyển hóa của tình yêu: bắt đầu từ bên trái – thiên thần tươi vui, ngây thơ, song chân đã dẫm lên cái gai – điềm báo cho chông gai phía trước. Sang bên phải, ta có bản chất hai mặt của tình yêu – nữ thần bé vừa ngọt ngào vừa có nọc độc. Tình yêu đạt đến mức độ mãnh liệt nhất là khi Vệ Nữ chiến thắng, tay nàng tước đi vũ khí của người tình – con trai. Cuối cùng là tình yêu suy tàn, khi nhan sắc đã kiệt quệ và chỉ còn cái xác khô tuyệt vọng (có thể còn mắc bệnh giang mai – xin đừng!). Tuy nhiên đây không phải cách giải thích duy nhất. Bức tranh hiện nằm tại viện bảo tàng quốc gia ở London. * Mannerism không chỉ gói gọn trong hội họa, nó còn lan đến cả điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc, văn học, triết học… Tuy thời kì Mannerism kéo dài khoảng 80 năm, gấp đôi Phục Hưng “gương mẫu”, nó vẫn bị lu mờ, phần nhiều bởi phong cách Mannerism không dễ nhìn, dễ hiểu, dễ thích như vẻ đẹp Phục Hưng. Song đối với những người đam mê, Mannerism cuốn hút chính vì sự khó chiều của nó. Tìm cách phủ định lại Phục Hưng, Mannerism có thể được coi là tiền thân đầu tiên của hội họa hiện đại. Thế chân Mannerism ở châu Âu là trào lưu Baroque. Nhưng đó là nội dung của những bài sau…
Ý kiến - Thảo luận
9:48
Saturday,15.11.2014
Đăng bởi:
Du Lai
9:48
Saturday,15.11.2014
Đăng bởi:
Du Lai
Cám ơn Anh Nguyễn rất nhiều, bài viết thực sự rất hay và bổ ích ^^
Bài đã đăng
» Xem tiếp... |
|||||||||||||||
|
...xem tiếp