Văn & Chữ

Truyện của Xuân Quỳnh:
Tìm bố (phần 1) 05. 11. 16 - 7:14 am

Đặng Thái giới thiệu và sưu tầm

Đọc những truyện về trẻ con và cho trẻ con của Xuân Quỳnh

Trong sách tiếng Việt lớp 2 có truyện “Người làm đồ chơi” nói về một bác làm nghề nặn tò he. Một lần khi đọc lại quyển sách giáo khoa này của đứa cháu thì mới nhận ra tác giả là Xuân Quỳnh. Hóa ra Xuân Quỳnh ngoài thơ còn viết khá nhiều truyện cho thiếu nhi. Văn học thiếu nhi đang là một trong những mảng yếu kém nhất của văn học viết tiếng Việt đương đại. Hai ba chục năm về trước rất nhiều nhà văn giỏi viết những truyện thiếu nhi cực hay.

Những truyện hay viết cho thiếu nhi – Xuân Quỳnh, NXB Kim Đồng, 2014.

Xuân Quỳnh với hai cuộc hôn nhân, đã trải qua việc nuôi dạy “con anh, con em, con chúng ta” với một tình yêu nồng ấm cho các con thể hiện qua những bài thơ của bà. Truyện cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh cũng vì thế mà bị ảnh hưởng bởi đời sống tình cảm của tác giả. Nhiều truyện của Xuân Quỳnh đã nhắc tới một đề tài gần như không bao giờ được các tác giả thiếu nhi khác nhắc đến, đó là: ly hôn. Nhiều khi người lớn suy nghĩ quá nhiều cho cuộc hôn nhân của mình, quyết định ly hôn hay không ly hôn cũng vì con nhưng lại chưa từng nhìn nhận cuộc ly hôn dưới ánh mắt của con trẻ. Truyện của Xuân Quỳnh đã thể hiện được điều đó.

Nhiều vấn đề khác của người lớn trong quan hệ gia đình cũng được đặt dưới nhãn quan của bọn trẻ, những đối tượng biết nhiều việc trong nhà hơn là chúng ta vẫn tưởng. Các bạn có thể tìm đọc ở cuốn Những truyện hay viết cho thiếu nhi Xuân Quỳnh của Nhà xuất bản Kim Đồng, nằm trong sê-ri một loạt tác giả thời trước với các tác phẩm cho thiếu nhi.

Xin giới thiệu các bạn truyện “Tìm bố” – một truyện về đề tài ly hôn, kết hôn dưới mắt trẻ con của nhà thơ-nhà văn Xuân Quỳnh.

*

TÌM BỐ

Trần Văn Trù, “Con trai họa sĩ”, 1978, bột màu

Trước kia tôi cũng có một người bố, tôi thường gọi rõ cả tên bố tôi là “bố Hải”. Vì tôi yêu bố tôi, tôi gọi thế để phân biệt rõ bố tôi với bố các bạn khác.

Năm ấy tôi mới lên bảy tuổi, tôi rất hay leo trèo nghịch ngợm, làm bố tôi vất vả vì tôi nhiều. Có lần nhà tôi mới làm gác xép xong, cầu thang gỗ mới đặt gá vào chưa chằng buộc gì, tôi không biết liền nhảy phóc lên rất mạnh, thế là cả cái cầu thang trượt đi, đổ sập xuống sàn đá hoa, đập lên hai bàn chân tôi. Tôi ngất lịm đi. Khi tỉnh dậy tôi thấy mình đang nằm trong bệnh viện, hai bàn chân quấn đầy băng và đau ghê gớm. Bên cạnh tôi là bố Hải và mẹ tôi đang ngồi nhìn tôi lo lắng.

– Con có đau lắm không? Bố tôi hỏi.

– Con què rồi – tôi khóc – Không đi được nữa rồi.

– Không què được đâu – bố an ủi – Con chịu khó nằm yên rồi sẽ khỏi.

– Con nghịch quá! – Mẹ tôi bảo, giập nát cả mười đầu ngón chân, bố Hải phải bế con chạy ngay đến bệnh viện.

Khi khỏi chân, ra viện được một thời gian, tôi lại gây ra một vụ rắc rối khác. Tôi sang chơi hàng xóm, vật nhau với bạn Minh, ngã vào cái phích thế là vừa bị bỏng vừa làm vỡ ruột phích. Lần ấy bố Hải phải mang cái phích nhà tôi sang đền nhà bạn Minh. Lại phải thuốc thang, chăm sóc tôi hàng tuần tôi mới khỏi.

Biết tính tôi hay nghịch ngợm, bố Hải mua tre về rào chắn thêm ở các lan can gác. Các loại thuốc uống bố cất vào trong tủ khóa lại vì sợ tôi hay bắt chước người lớn uống lung tung, mà tính tôi lại tham, uống thuốc cũng uống nhiều và chọn viên to. Bố còn dặn mẹ là khi nấu nướng phải hết sức chú ý, đừng cho tôi xông vào bếp, quai chảo đang đun phải quay vào phía trong đề phòng tôi bất thình lình với vào chảo. Các tai xoong và quai ấm đều được quấn bọc bằng dây điện bọc ni lông để lỡ tôi có cầm vào thì không bị bỏng…

Bố Hải tôi cẩn thận và tháo vát, các việc chính trong nhà thường do bố tôi lo liệu vì mẹ tôi thì vụng lại bị yếu tim. Thỉnh thoảng mẹ tôi thường bị xây xẩm mặt mày. Nghe người ta nói là khi sinh tôi mẹ cũng suýt chết. May nhờ có ông bác sĩ giỏi mổ cho và nhờ bố tôi chăm sóc hết lòng mới qua khỏi.

Trong khu tập thể nhà tôi, bố Hải nổi tiếng là người chăm sóc gia đình rất chu đáo. Ai cũng bảo mẹ tôi là:

– Chị thật là hạnh phúc. Có người chồng thương yêu, chăm sóc vợ con hết ý đấy.

Tranh của họa sĩ Nguyễn Xuân Khánh

Mỗi lần nghe vậy mẹ tôi chỉ mỉm cười, lặng lẽ mà nét mặt mẹ vẫn có gì như là buồn buồn thế nào ấy. Đúng là bố Hải tôi rất chăm chỉ, thương yêu tôi và chả bao giờ to tiếng với mẹ tôi, nhưng hai người rất ít chuyện trò vui vẻ với nhau, thường chỉ trao đổi với nhau về những việc cần thiết trong gia đình. Hình như đêm khuya hai người thường rì rầm nói chuyện gì với nhau nhưng mà tôi không để ý – vì lúc đó tôi đã buồn ngủ quá rồi.

Có một đêm tôi chợt tỉnh dậy, vẫn thấy bố mẹ tôi rì rầm trò chuyện. Tự nhiên tôi nảy ý tò mò lắng nghe xem hai người nói gì. Lúc ấy tôi đã tỉnh ngủ hẳn nhưng vẫn giả vờ như đang ngủ say lắm.

– Anh đã cố gắng quên đi tất cả – bố tôi nói – Vì em vì đứa trẻ, sáu bảy năm trời nay, mà hình như em vẫn chưa quên mọi điều, hơn nữa hắn ta vẫn còn liên hệ với em, hắn không cho anh sống yên được nữa.

– Anh tha lỗi cho em – mẹ tôi nói – và hiểu cho em không phải là như thế. Đó chỉ là sai lầm trong chốc lát. Hồi ấy em thật là khổ sở về mọi điều. Anh thì đi bộ đội biệt tăm, bao nhiêu thư từ em gửi đi mà chả có một thư nào của anh gửi về. Em ốm đau, cô quạnh… người ta giúp đỡ em… Bây giờ thì em đã quên hết, chỉ còn lại trong em về lỗi lầm đối với anh thôi. Còn anh ta, nếu như có chút liên hệ nào thì đó là vì anh ta cũng còn sự liên quan ấy. Anh nên thông cảm.

– Anh hiểu và thương em, bố tôi nói – nhưng thông cảm với hắn ta thì không bao giờ. Tại sao hắn ta không để cho anh và em yên ổn để nuôi đứa con này. Hắn đã xúc phạm đến gia đình anh, bây giờ hắn còn muốn gì nữa chứ! Trời ơi, anh phát điên lên mất. Anh muốn là chúng ta lại sống yên ổn như trước, thế mà…

– Em biết – mẹ tôi nói – Chả bao giờ chúng ta còn như trước được nữa, em thì lúc nào cũng mặc cảm về tội lỗi, còn anh thì chẳng bao giờ quên được mọi chuyện. Thấy anh càng chăm sóc con và em bao nhiêu em lại càng khổ tâm bấy nhiêu. Em đã nghĩ nhiều về điều này: em muốn em và anh được thanh thản. Có nhẽ em và anh chia tay nhau thì hơn.

– Xin em đừng nói thế – bố tôi nói – Anh không có ý định ấy vì thằng bé thì nhỏ dại, em lại vất vả ốm đau…

– Em biết ơn anh lắm – mẹ tôi nói – nhưng anh hãy nghe em. Cố gắng mà làm gì. Nếu chỉ vì thương em mà sống với em thì đấy là một sự trừng phạt em.

– Em đã nói thế thì tùy em thôi – bố tôi nói – Em muốn giải quyết sao cho em nhẹ nhàng nhất anh cũng vui lòng.

Nghe qua câu chuyện của bố mẹ, đầu óc non dại của tôi lúc bấy giờ còn chưa hiểu hết, nhưng tôi chỉ thấy trong lòng lo buồn lắm. Tôi luôn luôn tự hỏi “chẳng lẽ bố mẹ tôi, hai người vẫn thương yêu nhau và thương yêu tôi đến thế lại định không cùng ở với nhau nữa ư? Còn tôi, tôi sẽ ở với ai. Nếu như ở với mẹ thì tôi lại nhớ bố Hải, ở với bố Hải thì lại chẳng có mẹ bên cạnh. Khi ấy tôi sẽ buồn và khổ lắm. Trời ơi! Sao hai người lại không biết được điều ấy nhỉ? Đáng ra bố mẹ tôi phải biết là tôi cũng buồn lắm chứ, buồn khổ chẳng khác gì bố mẹ tôi đâu. Hay bố mẹ tôi nghĩ rằng những đứa trẻ không bao giờ biết buồn. Mà đúng ra thì họ chả nghĩ gì về tôi cả, chả hiểu gì cả. Tôi bé bỏng thế này mà nỗi khổ thì thật là to lớn quá!”

Dù là còn bé, tôi cũng nghĩ được mọi điều, nhưng tôi biết, thường là người lớn tự quyết định mọi việc, không bao giờ cho trẻ con bàn bạc vào. Vậy nên tôi im lặng chịu đựng một mình. Sự chia cách gia đình luôn luôn ám ảnh tôi trong lúc ăn, lúc chơi cũng như trong giấc ngủ. Bữa cơm, tôi cứ len lét hết nhìn bố lại đến nhìn mẹ y như mình vừa làm vỡ cái bát. Còn bố mẹ tôi thì chẳng buồn nhìn tôi và cũng chẳng nhìn nhau, hai người cứ nhìn đâu đâu ấy. Ban đêm, tôi hay nằm mơ, mơ toàn những chuyện chẳng ra đầu ra đuôi gì, khi tỉnh dậy là quên hết. Một lần tôi mơ một giấc mơ thật là sợ, tỉnh dậy tôi vẫn còn nhớ hết. Tôi mơ thấy tôi đang xem xiếc cùng bố mẹ, thì bị con hổ rạp xiếc tát chết. Bố mẹ đem tôi ra nghĩa trang chôn, rồi bỏ tôi ở lại một mình. Tôi nằm ở dưới đất vừa lạnh lại vừa tối. Bóng mấy cây phi lao cứ chạy qua chạy lại trước mặt tôi. Các bia mộ đều có chân và có mặt, chúng xếp hàng đi từng đoàn tiến về phía tôi. Tôi sợ quá, gào lên gọi bố mẹ, xin bố mẹ mang tôi về nhà, mà chẳng ai nghe thấy, cũng có thể nghe thấy mà hai người vẫn cứ lẳng lặng đi xa dần, mỗi người đi một đường. Thế là tôi khóc, tôi vùng vẫy mà không sao dậy được. Vừa lúc đó tôi nghe có tiếng gọi rất xa của mẹ tôi:

– Thân, Thân ơi, con làm sao thế?

– Bố mẹ đi đâu, bố mẹ đi đâu rồi. Tôi hỏi lúc dở tỉnh dở mê.

– Con mê ngủ rồi – bố tôi nói và ôm lấy tôi – bố mẹ vẫn nằm cạnh con đây mà.

Một tay tôi nắm lấy cánh tay bố, tay kia quờ sang bên cạnh vẫn thấy mẹ, tôi mới yên tâm ngủ tiếp.

Trần Văn Trù, “Tinh khiết”, bột màu

Thế rồi có một ngày, bố Hải bỏ tôi mà đi thật. Hôm ấy, đi học về tôi không thấy bố. Bữa cơm chỉ có hai mẹ con ăn với nhau. Tôi rụt rè hỏi mẹ:

– Bố Hải đâu hở mẹ?

– Bố đi công tác.

– Sao hôm qua bố Hải chả nói gì với con.

Mọi khi, trước khi bố đi bố hay dặn dò tôi từng li từng tí. Nào là không được nghịch ngợm, nào là phải nghe lời mẹ rồi bố về sẽ có quà. Thấy nét mặt tôi ỉu xìu, mắt mẹ cũng rưng rưng.

– Sao bố đi công tác mà mẹ lại khóc – tôi hỏi – Mẹ nhớ bố à.

– Ừ.

– Con cũng thế.

– Thôi, ăn đi con, mẹ nói rồi gắp thêm cho tôi miếng trứng vào bát.

Hai hôm sau tôi thấy bố tôi lại trở về, tôi mừng quá reo lên:

– A, bố Hải về rồi, bố về rồi, bố không phải đi công tác nữa chứ?

Tôi ôm choàng lấy bố như muốn giữ không cho bố đi đâu. Bố tôi cũng ôm chặt tôi, xoa đầu, vuốt ve tôi. Sau một lát im lặng, bố nói:

– Con ạ, bố về để lấy một ít quần áo và đồ đạc cần thiết rồi bố lại phải đi. Con ở nhà ngoan, nghe lời mẹ, đừng nghịch ngợm bố sẽ mua quà cho.

– Con chẳng thích quà đâu, con chỉ thích bố Hải ở nhà với con thôi, bố Hải đừng đi công tác nữa.

Tôi nói rồi càng bám chặt lấy bố hơn.

– Thôi con – mẹ tôi nói – con ra đây với mẹ cho bố sửa soạn đồ đạc. Đừng làm phiền bố nữa.

Bố tôi lấy quần áo, hộp cạo râu lại cả sách vở bỏ hết vào một cái vali to.

– Anh chỉ mang đi những thứ cần thiết – Bố nói với mẹ – Còn tất cả để lại cho em và con…

– Thôi đi anh – mẹ tôi vừa nói vừa ra hiệu cho bố và nhìn tôi – Bố tôi im bặt.

Bố gỡ một bức tranh đang treo trên tường, bức tranh do tôi vẽ bằng bút dạ nguệch ngoạc hình ba người: Mẹ, bố Hải và tôi đang đi xem con công ở công viên. Bức tranh này bố Hải vẫn thích, bố thường nói với mẹ: “Đúng là suy nghĩ của trẻ con, tất cả ba người đều đứng thành hàng ngang cùng với con công nhìn thẳng ra ngoài, thế mà lại gọi là đi xem con công mới vui chứ!”. Bây giờ bố đang đứng đó, tần ngần cầm bức tranh rụt rè hỏi tôi:

– Con cho bố Hải cái tranh này nhé?

– Vâng – Tôi trả lời – Nếu như bố thích, bao giờ bố về con sẽ vẽ cho bố nhiều, thật nhiều tranh con công nữa kia. Thế bố đi công tác có lâu không?

– Lâu.

– Lâu là bao nhiêu ngày?

– Chưa biết con ạ.

Thấy tôi phụng phịu, bố Hải kéo tôi lại, ôm chặt tôi vào lòng rồi bỗng dưng buông lỏng tôi ra, hờ hững nghĩ đâu đâu ấy. Tôi đã quen cái cách ấy của bố nhiều lần, nhưng lần này, qua cái cử chỉ ấy tôi cảm thấy bố Hải sẽ bỏ tôi mà đi mãi mãi. Mẹ tôi thì rầu rĩ nhìn hai bố con tôi mà chẳng nói gì.

Lần ấy, rất lâu không thấy bố Hải về. Nhưng thỉnh thoảng bố lại gửi cho tôi những thứ mà tôi thích: kẹo cao su, màu nước, bút dạ và bút chì màu. Mãi sau, mẹ tôi mới nói cho tôi biết là bố mẹ đã quyết định không sống với nhau nữa. Khi tôi hỏi lý do thì mẹ tôi chỉ trả lời qua loa là: “Bố mẹ cần phải thế, khi nào lớn con sẽ hiểu…”.

Tranh của Đặng Tiến

Từ đấy mẹ tôi càng hết sức chiều chuộng và bù đắp cho tôi. Thỉnh thoảng bố Hải có về thăm, mỗi lần về lại cho tôi bao nhiêu là quà.

Sau ba năm, sự thiếu bố Hải bên cạnh dần dần tôi cũng quen đi, thì bỗng nhiên mẹ tôi lấy chồng. Chồng của mẹ là một cán bộ hành chính trong một cơ quan nào đó. Khi ấy ông chừng bốn tư, bốn lăm tuổi. Trông ông, tôi chẳng có cảm tình chút nào, ông có một cái nốt ruồi ở mang tai có ba cái lông dài dài trên cái nốt ruồi ấy mà ông chẳng chịu cắt. Sáng dậy ông hay súc miệng nước muối. Mỗi lần súc miệng ông cứ ngửa cổ lên òng ọc rất lâu rồi mới nhổ.

Trước khi lấy mẹ, ông có qua lại thăm mẹ nhiều lần. Mẹ tôi gọi ông là anh Thành. Tôi cứ ngỡ ông là họ hàng của mẹ, tôi cũng gọi bác Thành. Tính bác Thành cẩn thận, chu đáo, mỗi lần đến bác không chỉ đến chơi không, mà bao giờ bác cũng làm lụng, sắp đặt cái gì đó. Lần thì bác dọn nhà, thau, phi nước, lần thì sửa điện, chữa cánh cửa… Có khi bác còn mang tem phiếu đi mua đường và nước mắm hộ mẹ tôi nữa. Tôi cảm thấy bác để ý đến việc nhà hơn là để ý mẹ chứ đừng nói gì đến tôi nữa. Những lúc bác Thành loay hoay làm việc nọ việc kia thì tôi chạy ra chạy vào chơi quanh quẩn. Bác nhìn tôi thờ ơ như nhìn đứa trẻ hàng xóm. Tôi chẳng hiểu bác yêu tôi hay ghét tôi. Còn tôi, tôi cũng chẳng yêu, chẳng ghét bác Thành – Tôi chỉ để ý xem xét bác thôi. Đùng một cái, tôi biết tin là mẹ tôi sắp lấy bác Thành, tôi buồn lắm. Mấy năm trước đây tôi đã mất bố Hải rồi, bây giờ lại sắp mất cả mẹ nữa. Tôi ôm mẹ khóc nức nở:

– Mẹ ơi, mẹ đừng bỏ con đi lấy bác Thành – mẹ lấy bác Thành thì con ở với ai?

– Mẹ xin con – mẹ tôi dỗ – con đừng khóc nữa, mẹ vẫn ở đây với con, cả bác Thành cũng về đây, chúng ta vẫn sống như bây giờ, mẹ vẫn thương yêu con, lại thêm bác Thành nữa, bác sẽ chăm sóc con như bố Hải.

– Không – tôi vùng vằng thoát khỏi tay mẹ – Chả như bố Hải được đâu. Con ghét bác Thành lắm

– Con chưa hiểu bác Thành thôi – mẹ tôi nói – Nếu con hiểu con sẽ thương bác đấy. Trước kia bác cũng có một gia đình ở quê, vợ bác chết, bác phải nuôi con nhỏ một mình. Không có nhà riêng, phải ở nhà tập thể của cơ quan, thấy bác vất vả, mẹ bác đón con nhỏ về quê nuôi, tên con bác là Tươi. Tươi năm nay đã mười bốn tuổi. Mẹ định bảo với bác là đón cả Tươi ra đây ở với con cho có chị có em… Con bằng lòng chứ?

Tôi thôi không phản đối mẹ nữa nhưng thực sự tôi vẫn chưa có thể yêu bác Thành được.

Tranh của Trần Trọng Minh

Khi về ở hẳn nhà tôi, bác cũng chẳng gây cho tôi một chút cảm tình nào hơn. Bác vẫn chăm chỉ việc nhà, bác bắt cả chị Tươi làm suốt ngày, nhiều khi đáng lẽ việc không cần phải làm bác cũng bắt chị làm, ví dụ như bác bắt chị đánh bóng các nồi chảo, lấy tăm dặm lại những nan rá bị rách. Buổi sáng khi bác ngủ dậy là bác khua cả nhà dậy, nhất là chị Tươi.

– Có việc gì đâu mà bắt nó dậy sớm – mẹ tôi bảo – Nó đi học buổi chiều, buổi sáng cứ để nó ngủ muộn cho nó khỏe.

– Khỏe gì không biết – bác nói – ngủ muộn rồi quen lười biếng đi, chỉ tổ hư thân thôi.

Đối với tôi, bác ít mắng mỏ nhưng cũng chẳng gần gũi quan tâm, chỉ thỉnh thoảng bác sai tôi đi mua diêm, mua muối và những việc lặt vặt trong nhà. Tuy vậy đối với bác tôi vẫn cảm thấy mình như đứa trẻ hàng xóm. Tôi càng nhận thấy rõ là bác để ý đến mọi việc chứ không quan tâm đến mọi người. Trước khi lấy bác, mẹ tôi bảo “bác sẽ thay bố Hải để yêu thương săn sóc tôi” nhưng khi bác về ở với mẹ con tôi, tôi lại thấy là bác thay mẹ tôi để quản lý mọi việc trong nhà. Chính bác Thành là người giữ tiền và phân phối mọi chi tiêu. Bác bảo với mẹ:

– Em luộm thuộm lắm – tem phiếu để lung tung, khi cần mua tìm chẳng thấy. Đi chợ thì hay nhầm lẫn mất tiền. Thôi để anh giữ cho mọi thứ, và chi tiêu chợ hàng ngày cho dễ nhớ.

Tất nhiên là mẹ tôi mừng rơn, vì tính mẹ ẩu và không tháo vát. Thế là mỗi ngày bác lại chi tiền chợ cho chị Tươi hoặc mẹ tôi, bác dặn đi mua bán rất cẩn thận. Bác có một quyển sổ riêng ghi chép các mục chi tiêu hàng ngày: có lần tôi liếc trộm mấy dòng ghi trong sổ:

Lạc – 18 đồng.

Rau – 12 đồng.

Trứng – 38 đồng (2 quả) v.v…

Đôi khi bác cằn nhằn mẹ tôi là nhà có thức ăn rồi còn mua thêm đậu, hoặc nhắc chị Tươi là đi chợ về còn ba đồng chưa đưa lại cho bác. Có những lúc sự cằn nhằn lên cao độ trở thành to tiếng giữa hai người:

– Cô hoang toàng lắm – bác Thành mắng mẹ – Cô tiêu pha như thế này thì chỉ có bán cả cơ nghiệp đi mà ăn.

– Cơ nghiệp! – mẹ tôi cãi – Anh chỉ làm to chuyện. Chẳng qua là mấy cái nồi, mấy cái bát chứ gì! Đúng là bán đi cũng chẳng đủ ăn một tháng.

Những cuộc va chạm giữa mẹ và bác Thành ngày càng nhiều. Mẹ tôi trở nên buồn phiền mà tôi thì càng chán bác. Còn bác thì nhìn tôi như một vật trở ngại trong nhà chứ không phải trẻ con hàng xóm nữa. Có lần bạn bác đến chơi, nhân bàn về cuộc sống đắt đỏ khó khăn, ăn tiêu tốn kém, bác chỉ vào tôi và nói:

– Thằng Thân nhà tôi nó ăn khỏe có khi còn hơn người lớn ấy. Không có gì tốn bằng cái ăn. Các cụ ngày xưa đã có câu “Miệng ăn núi lở” mà lại.

Nghe bác nói, tôi vừa bực tức vừa tủi thân. Bố Hải tôi trước kia chẳng bao giờ nói thế mà lại còn dỗ dành cho tôi ăn kia. Đằng này cứ mỗi bữa ăn là một lần tôi thấy khổ nhục. Tôi chỉ dám ăn hai bát cơm., chẳng dám xoi xói gắp thức ăn như hồi ở với bố Hải. Mẹ tôi biết ý, thường lẳng lặng gắp thức ăn vào bát cho tôi. Thấy vậy bác nói gióng lên:

– Chan canh rồi thì không cần phải ăn thức ăn.

Nhiều lần tôi hậm hực nói riêng với mẹ:

– Bác Thành ghét con, lúc nào cũng mắng con về chuyện ăn uống, bác làm như con ăn tham, ăn hết của bác ấy. Trước kia không có bác Thành mẹ vẫn nuôi được con cơ mà, phải không mẹ.

– Con nên thương bác – Mẹ tôi không trả lời vào câu hỏi của tôi mà lại khuyên giải – Vì trước kia bác nghèo lắm, phải hà tằn hà tiện để nuôi chị Tươi. Bây giờ bác cũng chẳng làm gì ra tiền ngoài đồng lương và tiền trợ cấp thêm của cơ quan. Cũng là vì bác lo xa cho cả gia đình đấy thôi. Con xem, chính bác cũng chả dám ăn mặc gì nhiều.

Có lẽ mẹ tôi nói đúng, bác Thành chả mấy khi ăn nhiều, còn mặc thì xuềnh xoàng cũng toàn quần áo cũ. Bác đối với chị Tươi cũng khe khắt như vậy. Nhưng chị Tươi ít bị nhắc nhở về ăn uống như tôi vì chị ăn ít lại rất là ý tứ – Có nhiều khi chị chỉ cần chan canh với vài quả cà là xong bữa cơm.

Chị Tươi năm ấy mười bốn tuổi mà tôi cảm thấy chị rất lớn, lớn như một cô gái mười sáu, mười bảy tuổi ấy. Chị có hai hàm răng rất trắng lại có chiếc răng nanh khểnh ở hàm trên nên chị cười rất tươi giống như cái tên của chị. Chị nhanh nhẹn, tháo vát, luôn giành lấy mọi việc trong nhà để làm. Chị thường bảo với mẹ tôi:

– Chẳng có việc gì đâu, cô cứ để cháu làm, cháu làm được mà.

Mỗi khi nhìn xuống đường, thấy mẹ tôi đi làm về, chị chạy ngay xuống cầu thang, bê xe lên gác cho mẹ.

Tranh của họa sĩ Nguyễn Xuân Khánh

Mẹ tôi rất yêu chị Tươi, cả tôi cũng vậy, yêu cái nết hay làm, cái tính tình vui vẻ cởi mở của chị. Thỉnh thoảng đi chợ về chị lại bớt dăm ba đồng mua cho tôi cái bánh chưng hoặc mấy quả táo. Một lần mẹ tôi và chị Tươi đi vắng, bác Thành sai tôi ra chợ mua lạng lạc, về bác cân lại không đủ, bác bắt tôi phải mang trả lại bà hàng lạc. Tôi nhất định không đi, thế là bị bác mắng cho túi bụi. Tôi ức quá òa lên khóc. Vừa lúc ấy chị Tươi về. Một tay chị cầm lấy gói lạc, một tay nắm tay tôi, chị bảo tôi dẫn chị ra hàng lạc. Ra đến nơi chị nói với bà bán hàng rất nhẹ nhàng, vui vẻ:

– Bác ơi, em cháu nó vừa mua lạc của bác. Có lẽ bác cân nhầm, chưa đủ lạng đâu, bác xem lại xem kẻo em cháu bị mắng.

Bà hàng đặt gói lạc lên đĩa cân cân lại, thấy hơi non, bà đưa thêm cho một dúm tới khi bên đĩa cân đựng lạc trĩu hẳn xuống. Mọi việc thế là đã êm đẹp. Nhưng tôi vẫn không nguôi uất ức. Bữa ấy tôi quyết định nhịn cơm cho bác Thành biết tay. Mẹ tôi, rồi cả chị Tươi nữa dỗ dành mãi, tôi vẫn quyết không ăn. Bác Thành thì bực tức nói là “Không ăn càng còn”. Tôi càng tủi nhục, đứng lì lợm ở góc nhà. Lúc ấy tôi nghĩ đến bố Hải của tôi. Nếu như là bố Hải thì bố chả bao giờ bắt tôi đi trả lại gói lạc. Tôi không ăn cơm, bố sẽ dỗ dành cho ăn bằng được. Nếu không, bố sẽ mua bún, mua phở cho ăn. Đằng này: “Không ăn càng còn”, người đâu mà độc ác thế, mà tôi có ăn của người ấy đâu kia chứ… Tôi ngửi thấy mùi cơm và mùi đậu rán bốc lên thơm phức, tôi nghe tiếng bát đũa va vào nhau lách cách. Tôi bỗng thấy đói, đói cồn cào. Nhưng tôi đã quyết rồi, nhất định sẽ không ăn cho bác ấy biết tay. Tôi bỏ ra ngoài hành lang nhìn xuống đường cho nguôi cơn đói. Nhưng không sao quên được. Tuy không quay lại, tôi vẫn như nhìn rõ mâm cơm có đĩa đậu rán vàng, bát nước rau muống vắt chanh và… mọi người đang ăn ngon lành. Còn tôi thì đói, đói quá! Ước gì có bố Hải ở đây nhỉ, bố chỉ cần nói một câu là tôi ăn ngay thôi, ước gì?…

Cả nhà đã ăn xong, chị Tươi đi rửa bát. Sau khi rửa bát chị Tươi chạy ra hành lang tìm tôi, chị dúi vào tay tôi một gói giấy. Tôi mở ra thấy có bốn miếng đậu rán vàng, thơm phức không thể nhịn hơn được nữa, tôi ngồi thụp xuống, quay mặt ra đường, ăn ngấu nghiến. Chưa bao giờ tôi thấy ngon miệng như thế. Mãi tới chiều, khi bác Thành đi vắng, mẹ tôi dỗ dành mãi tôi mới chịu ăn cơm. Chị Tươi cũng dỗ tôi, chị còn bảo:

– Đừng giận bố chị. Tính ông ấy thế. Thực ra ông ấy cũng chả sung sướng gì đâu. Chị thì quen rồi nhưng chỉ thương em.

Nghe chị nói, tôi thấy thương chị, thương mẹ tôi và thương cả tôi nữa. Tôi càng ghét bác Thành – Sao bác làm khổ nhiều người thế. Mẹ tôi thì ngày càng buồn phiền, các cơn choáng váng xây xẩm mặt mày nhiều hơn trước. Những cuộc va chạm giữa mẹ tôi và bác Thành, giữa tôi và bác Thành cũng ngày càng nhiều hơn.

Tranh của Đặng Tiến

*

Một hôm, tôi lấy bút lông, giấy và màu ra vẽ như mọi lần. Tôi vẽ tàu hỏa, trường tôi, bố Hải và vẽ cả cái nhà của bố Hải nữa. Tôi biết nhà của bố Hải rồi, vì bố có đưa tôi về chơi mấy lần. Nhà của bố ở cuối đường tàu điện số bốn mươi lăm phố N, trước cửa nhà có cái cột điện, mặt ngoài nhà là hàng nước chè. Tôi vẽ hết cái tranh này đến cái tranh khác, hỏng bỏ đi, lại vẽ lại. Giấy má, màu bút vứt đầy nhà. Vừa lúc ấy thì bác Thành đi làm về, bác cau có bực tức:

– Làm gì mà bừa bãi ra thế hở Thân?

– Cháu vẽ – Tôi trả lời và nghĩ bụng: “Bác biết thừa đi là tôi vẽ chứ còn làm gì mà phải hỏi”.

– Vẽ với chả vời, thôi, dẹp đi, tao trông mà phát ngốt lên được.

– Anh làm gì thì cứ làm – Mẹ tôi nói – Cho con nó vẽ một chút. Nó có nghịch ngợm hư hỏng gì đâu mà khó chịu!

Được mẹ bênh tôi cứ ngang nhiên vẽ, lại còn bày thêm ra để trêu tức bác Thành vì tôi rất ghét cái cách cứ “mày mày tao tao” của bác nói với tôi. Chưa bao giờ bác nói với tôi một lời nhẹ nhàng âu yếm.

– Này – bác nói – Tao bảo một lần nữa đấy: Dẹp đi! Nói không nghe thì đừng có trách. Vẽ với chả vời! Cái ngữ mày chả bao giờ thành họa sĩ được đâu!

– Sao anh lại nỡ nói con thế – Mẹ tôi gay gắt – Nó chẳng nghĩ nó sẽ thành họa sĩ nhưng nó thích vẽ cho vui thôi, cũng như anh đấy, cả ngày anh cứ phải tính tính toán toán, hẳn đấy cũng là niềm vui của anh.

– À cô lại bảo tôi là tính toán – bác Thành nổi giận – Cô bảo tôi là ky bo bần tiện chứ gì. Không tính toán thì làm sao bốn cái miệng ở nhà này đủ sống.

– Bác đừng cáu thế – Tôi cãi liều – Mà bác cũng đừng gọi mẹ cháu là cô. Ngày trước bố Hải cháu chả bao giờ gọi mẹ cháu là cô và gọi cháu là mày.

– À thằng này láo, tao cứ gọi thế đấy làm gì tao. Lúc nào cũng bố Hải, bố Hải. Thử đi mà ở với bố Hải xem bố Hải mày có nuôi được không. Đừng có cái thói “Ăn một nơi, ấp một nơi”.

– Anh Thành – Mẹ tôi quát lên – Anh không được nói con thế. Nếu nó có lỗi thì dạy bảo nó đàng hoàng.

– Cô bảo sao – Bác quát lại – Dễ tôi phải thờ nó chắc. Nó có phải là bố tôi đâu.

Bác điên tiết chạy lại vơ mấy cái tranh của tôi vò nát, rồi định ném ra cửa. Tôi uất ức nhảy chồm lên túm áo bác vừa hét vừa la khóc:

– Ông ác lắm, tôi ghét ông, tôi thù ông.

– Này thì thù – Bác ném nắm tranh đi và tiện tay cho tôi một cái tát.

Sự việc xảy ra thật nhanh, mẹ tôi không kịp ngăn, mẹ chỉ kịp lao vào gỡ tôi ra khỏi bác, mẹ cũng la hét và khóc lóc. Sau tôi cũng chẳng còn nhớ là lúc ấy mẹ đã la hét và nói những gì. Khi ấy chị Tươi đi học chưa về…

(Còn tiếp)

Ý kiến - Thảo luận

18:49 Saturday,5.11.2016 Đăng bởi:  ABC
Thank admin và chị Anh Nguyen
...xem tiếp
18:49 Saturday,5.11.2016 Đăng bởi:  ABC
Thank admin và chị Anh Nguyen 
12:57 Saturday,5.11.2016 Đăng bởi:  admin

@abc: là truyện ngắn Vị của Roald Dahl do Hồ Như Mai dịch. Link tại đây


...xem tiếp
12:57 Saturday,5.11.2016 Đăng bởi:  admin

@abc: là truyện ngắn Vị của Roald Dahl do Hồ Như Mai dịch. Link tại đây

 

(Đề nghị gõ chữ tiếng Việt có dấu và không viết tắt)

Bài đã đăng

» Xem tiếp...

Tìm kiếm

Tiêu đề
Nội dung
Tác giả