Nghĩa của tiếng Việt: Trẩy và Nhặt
21. 03. 15 - 7:06 am
Cùng học tiếng Việt
Hôm trước là hai từ có liên quan đến “ngoại quốc”. Hôm nay chúng ta cùng bàn về hai từ Nôm là “trẩy” và “nhặt” nhé. 1. Trẩy
Trẩy là một động từ trong tiếng Việt, có hai nghĩa:
(1) là đi qua, và (2) là đi để hái nhặt cái gì đó.
Nói chung, đã dung từ trẩy là ít nhiều có động tác đi trong đó.
Chúng ta cùng xem một vài ví dụ:
a. “Khách xa nhớ đến nhau tìm Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà” Phạm Thiên Thư – Động hoa vàng
Ở đây, “trẩy” nghĩa là đi hái (sim), trẩy trong câu thơ này được dùng giống như ( trong du xuân là) “trẩy lộc”.
“Cây sim ra quả sim”. Ảnh từ trang này. (Tuy nhiện anh Phó Đức Tùng nói đây là… quả mua. Các bạn đọc giải thích của anh Tùng trong phần thảo luận bên dưới nhé/)
Quả sim (ảnh từ Internet). Ảnh này có lẽ đúng?
b. “Năm mươi người trẩy theo sông tới khơi chừng” Phạm Duy – Con đường Cái quan
Ở đây, “trẩy” là đi (hay trôi) theo dòng nước sông để ra “khơi chừng”.
c. “Vương lão chém mèo, lượt trẩy lòng ngờ thủ toạ” Trần Nhân Tông – Cư trần lạc đạo phú
(dịch ra tiếng Việt hiện đại: Vương lão chém con mèo (làm đôi – tội nghiệp con mèo quá!), lướt đi qua (để hiểu rõ) hết lòng ngờ của thủ tọa.)
Vương Lão chém mèo – Tranh không rõ tác giả
“Cư trần lạc đạo phú” là một văn bản Phật giáo rất cổ từ thế kỉ 13, chép bằng chữ Nôm. Tiếng Việt cách đây 800 năm so ra rất khác so với tiếng Việt thời Lê, Nguyễn, rồi sẽ cực kì khác so với tiếng Việt của chúng ta bây giờ. Vương lão ở đây chỉ thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện. Trong câu này, Trần Nhân Tông muốn nhắc tới công án chém mèo của thiền sư Nam Tuyền, có chép trong “Vô Môn Quan” (Cái cổng không có lối vào) – là cuốn sách tập hợp các công án nổi tiếng của Thiền tông:
“Hòa thượng Nam Tuyền nhân việc các học tăng ở Đông đường và Tây đường cứ tranh cãi nhau vì một con mèo, mới nắm ngay nó tại chỗ và giơ lên, nói:
– Nếu có ai trong các ngươi nói được một câu nào, ta sẽ tha mạng con mèo. Bằng không, ta sẽ chém nó cho coi.
Chư tăng không ai đáp lại được. Rốt cục, không còn cách nào, Nam Tuyền chém con mèo.
Nam Tuyền Phổ Nguyện chém mèo – Tranh không rõ tác giả
Chi tiết tranh
Tôi hôm đó, đại đệ tử của ông là Triệu Châu ở ngoài về. Nam Tuyền đem chuyện vừa xảy ra kể lại. Lúc đó, Triệu Châu mới tháo đôi dép cỏ mang dưới chân đội lên đầu và ra khỏi phòng.
Nam Tuyền thấy thế mới bảo:
– Nếu ngươi lúc đó có mặt thì nhất định con mèo không đến nổi chết.”
(Dẫn theo bản dịch Vô Môn Quan của Nguyễn Nam Trân)
2. Nhặt
Từ nhặt đang nói đến ở đây không phải là từ nhặt động từ (hái nhặt), mà là tính từ nhặt.
Nhặt là một từ cổ, nghĩa là nhỏ, hẹp. Trong tiếng Việt hiện đại, từ này không còn thông dụng, trừ trong một số chữ đã nói thành quen miệng:
a. Nhỏ nhặt: trong chữ này, nhặt không phải là một từ vô nghĩa được láy theo từ nhỏ, như chúng ta (có thể) đã học ở tiểu học.
b. Mũi khâu nhặt, mía nhặt mắt: các mũi khâu, đốt mía nằm gần nhau, cách 1 khoảng hẹp.
c. Khoan nhặt mái chèo… Phó Đức Phương – Hồ trên núi
Khoan là từ Hán, nghĩa là rộng. Khoan nhặt nghĩa là nhịp chèo lúc chậm (khoan – khoảng cách giữa các nhịp rộng), lúc nhanh (nhặt – khoảng cách giữa các nhịp hẹp).
"Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu."
...xem tiếp