Nghĩa của tiếng Việt: Cam và Khổ và Hợp chúng quốc
26. 05. 15 - 6:44 am
Cùng học tiếng Việt
1. Cam và khổ
Thỉnh thoảng chúng ta lại đọc thấy cụm từ: “Đồng cam cộng khổ”, chẳng hạn nói về những người trong hoàn cảnh nào cũng có nhau; hoặc cụm “Khổ tận cam lai”(khổ đau qua rồi vui sướng mới tới).
Cam và khổ là hai từ Hán Việt có nghĩa ngược nhau.
Khổ có nghĩa là đắng, ví dụ như khổ qua = mướp đắng (qua là trái mướp), khổ tâm = đắng lòng.
Vì cảm giác ăn cái gì đắng vào miệng rất khó chịu, nên khổ còn có nghĩa là cực nhọc, đau buồn. Các ngôn ngữ Á Đông dùng chữ khổ để dịch thuật ngữ dukkha của Phật giáo, chỉ sự khó chịu, không hài lòng.
“Giáo pháp của tôi dạy là về một điều và chỉ một điều mà thôi, đó là về khổ và cách diệt trừ khổ.” (Trung Bộ kinh) Cam ngược lại nghĩa là ngọt, ngon, chữ Hán viết là 甘, tượng hình cái lưỡi. Trái cam thì được viết kèm thêm bộ mộc 柑. Chúng ta có một số từ ghép như cam thảo = cỏ ngọt, cam lộ/lồ = sương ngọt.
Bồ-tát Quán Thế Âm dùng cành dương liễu rảy nước cam lồ. Hình từ trang này
Vì ngọt, ngon nên cam còn có nghĩa là bằng lòng, chấp nhận, từ đó chúng ta có cam chịu.
Do chữ cam liên quan tới vị nên nhiều khả năng là được dùng để chỉ quả cam trước, ý là loại quả có vị ngọt, sau đó mới dùng để chỉ màu cam của quả cam. Tương tự chữ orange ở phương Tây cũng vậy, chữ orange dùng để chỉ quả cam có gốc gác xa xôi từ tiếng Ba Tư hoặc tiếng Phạn. Người ta tra cứu sách vở tiếng Anh thì phát hiện chỉ từ khoảng thế kỉ 16 chữ này mới dùng để chỉ màu cam. Trước đó, người ta gọi màu cam là màu “đỏ-vàng”, hoặc đơn giản là đỏ (ví dụ tiếng Anh gọi tóc đỏ nhưng thật ra nó ngả sang sắc cam nhiều hơn).
Michael Lynn Adams, “Sunrise orange”. Sơn dầu trên canvas
Bánh cam vừa ngọt vừa giống quả cam? Hình từ trang này
Cam còn một nghĩa nữa, viết là 疳. Chữ cam này dùng để chỉ bệnh của trẻ con. Do đó chúng ta có từ chảy máu cam, chỉ chứng trẻ con bị chảy máu mũi, chứ thật ra máu đó vẫn màu đỏ bình thường chứ không có cam gì hết. 2. Hợp chúng quốc
Hợp Chúng Quốc là cụm từ người Trung Quốc dùng để dịch chữ United States, và chúng ta mang từ đây về tiếng Việt. Từ hợp là united, còn chúng nghĩa là nhiều. Chúng ta là “nhiều ta”, chúng sinh là toàn bộ các vật sống. Chúng quốc là số nhiều của quốc, dịch chữ states nghĩa là nhiều nước nhỏ (hay tiểu bang).
Bản đồ các câu lạc bộ bóng chày ở các tiểu bang nước Mỹ. Hình từ trang này
Theo thời gian, người Việt có thói quen đọc sai thành Hợp chủng quốc với kiến giải “chủng” trong “chủng tộc” nghĩa là Mỹ là đât nước có nhiều chủng tộc sinh sống. Nhưng xét về mặt phiên âm Hán Việt thì chữ Chúng mới là cách phiên âm đúng của chữ Hán 眾 này.
Nếu bạn nào để ý thì Bộ giáo dục đã cố ý dùng từ Chúng trong các sách giáo khoa hiện hành, điển hình là đặt tựa bài số 6 môn Địa lý lớp 11 bằng cái tên Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Tuy nhiên, không phải chỉ có mỗi chữ Chúng trong Hợp Chúng Quốc là bị dùng sai đâu, “chung cư” mà chúng ta hay dùng thật ra gốc gác chữ Hán phải đọc là chúng cư, với cư là cái nhà, chỗ ở; chúng cư là một cái nhà to chứa nhiều cái nhà nhỏ ở trong.
Chú ý là khi bọn mình đăng bài này trên fb đã có nhiều tranh cãi, kiểu như “Tiếng Việt là của người Việt, tại sao phải đi sửa lại cho giống tiếng Tàu”. Mục đích chính ở đây của bọn mình là để cho mọi người cùng học chữ “chúng”, và bọn mình phân tích gốc từ để chỉ ra cách ngôn ngữ đã bị biến đổi do thói quen như thế nào. Bọn mình hoàn toàn không đi bắt bẻ, ép buộc ai phải đổi “chung cư” thành “chúng cư” cả.
...xem tiếp