Thiết kế

Trăm năm mũ áo 10. 12. 15 - 5:04 am

Đặng Thái

(Tiếp theo bài trước: Com-lê và ca-vát là đôi bạn thân)

*

Học giả Trần Quang Đức có tác phẩm nghiên cứu “Ngàn năm áo mũ” nổi tiếng, qua đó có thể thấy suốt một thời gian rất dài ở nước ta, không chỉ “áo” mà cả “mũ” còn đóng một vai trò rất quan trọng trong cách thức ăn mặc và thể hiện địa vị xã hội của mỗi người. Mỗi kiểu mũ không dừng lại ở xu hướng thời trang của thời kì ấy mà còn là biểu tượng của cả một giai đoạn lịch sử. Ngày nay đa phần người Việt không còn đội mũ với tính chất trang sức nữa mà với mục đích thực dụng nhiều hơn. Chiếc mũ mà ai ai cũng đội ở Việt Nam lúc này chỉ có mũ bảo hiểm xe máy. Vài chục năm về trước thì mũ cối cũng đã từng là một hình tượng rất phổ biến. Thế còn xa hơn nữa thì sao?

Sự biến chuyển như vũ bão của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 thể hiện rõ ràng qua cách ăn mặc, nhân vật Typn của Vũ Trọng Phụng là một ví dụ. Khi người Pháp đến, mang theo phong cách phục sức châu Âu, những kiểu mũ lần đầu xuất hiện tại Việt Nam đã nhanh chóng được ưa chuộng. Cùng với mũ là áo khoác kiểu Tây cũng trở thành mốt của giới thượng lưu. Vào mùa đông lạnh ngoài Bắc thì mũ dạ và áo ba-đờ-xuy (tiếng Pháp: Pardessus) là thứ trang phục nam giới sang trọng và đắt tiền. Trong bài này ta sẽ cùng tìm hiểu giai đoạn “kêu gọi cắt tóc ngắn, cắt móng tay, vận Âu phục” ở Việt Nam, vốn dễ nghiên cứu hơn ngàn năm về trước rất nhiều, mà ngay ngày mai lại có thể ứng dụng mặc ra đường được.

Đầu tiên là mũ

Cảnh mở đầu phim Modern Times (Thời hiện đại) của Charlie Chaplin. Tất cả đàn ông Mỹ vào nửa đầu thế kỷ 20 đều đội mũ khi ra đường như một phần bắt buộc của trang phục.

Loại mũ mà ta thấy đa số giới viên chức trung lưu đội thời kì này, cùng với bộ suit chính là mũ fedora. Người Việt thường gọi là mũ phớt, chất liệu bằng dạ thì gọi mũ dạ. Vành mũ không quá rộng, chỉ vừa đủ để che nắng che mưa. Hơi cụp xuống, che bớt khuôn mặt thì rất quyến rũ mà hơi vểnh lên thì lại rất ngông nghênh. Chính vì thế mà chiếc mũ tượng trưng cho nam tính này được đàn ông trên toàn thế giới yêu thích suốt cẩ mấy chục năm. Người Việt mình nôm na, mũ cao bồi nhiều khi cũng gọi luôn là mũ phớt.

Cảnh phiên tòa xử Al Capone trong phim truyền hình Broadwalk Empire (2010 – 2014) tái hiện bối cảnh những năm cấm rượu (1920 – 1933) ở Mỹ. Trong ảnh có mấy loại mũ phổ biến thời bấy giờ. Hầu hết đàn ông đội mũ fedora.

Giới công nhân, nông dân, người lao động phổ thông có địa vị xã hội thấp hơn thì lại đội kiểu mũ khác. Ở Việt Nam hay gọi chung chung tất cả là mũ bê-rê (tiếng Pháp: béret) nhưng thực tế không phải như thế. Loại mũ bê-rê mà các họa sĩ ở ta, các cụ già hay đội chính là mũ bê-rê kiểu Pháp mà tiếng Việt gọi là mũ nồi.

Cảnh trong phim The Iron Lady (2011), Bà Thatcher mắng các đồng nghiệp trong Nội các vì họ khuyên bà thỏa hiệp với châu Âu đại lục, dùng chung một đồng tiền. Bà quát: “Sao các ông không đội lên đầu cái mũ beret?” vì mũ beret được coi là biểu tượng của người Pháp.

 

Mũ bê-rê không chỉ gắn liền với Pháp mà còn cả Tây Ban Nha. Hai người nói tiếng Tây Ban Nha trong ảnh: Pablo Picasso và Che Guevara đã đưa mũ bê-rê trở thành hai biểu tượng toàn cầu. Mũ bê-rê nguyên bản luôn có một cái núm nhỏ xíu trên chóp mũ.

 

Gia đình họa sĩ Tô Ngọc Vân chụp tại Việt Bắc khoảng năm 1950. Tất cả nam giới đều đội mũ, 4/5 người đội mũ nồi. Mũ nồi đã trở thành một phần hình ảnh của họa sĩ Việt Nam.

Quân đội nhiều nước và cả nước ta cũng có một bộ phận đội mũ nồi nhưng đã bị loại bỏ cái chóp và làm lệch về một bên mặt. Còn loại mũ của tầng lớp bình dân ở Anh, Mỹ không phải là mũ bê-rê mà gồm hai loại rất hay bị nhầm lẫn với nhau: flat cap newsboy cap. Flat cap dài chứ không tròn như beret, lại có một lưỡi trai nhỏ phía trước, còn gọi là golf cap (mũ chơi gôn), driver cap (mũ lái xe) là loại rất phổ biến, ngày nay nam giới có thể đội khi đi dã ngoại, kết hợp với quần áo lịch sự nửa bình dân.

Newsboy cap tên khác là eight piece cap (mũ tám múi do mũ may từ tám mảnh vải, khâu lại trên đỉnh), Gatsby cap (mũ của nhân vật chính trong tiểu thuyết The Great Gatsby) thì dân dã hơn, giờ ít người đội, cuối thể kỷ 19, đầu thế kỷ hai mươi được trẻ con và dân nghèo đội là chính, kết hợp với các chất vải quần áo thô ráp. Rồi dần dà giới trung lưu cũng đội đi chơi thể thao.

Armie Hammer đội flat cap trong phim The Man From U.N.C.L.E

 

Một cảnh rất cảm động trong phim The Kid (1921). Cậu bé đang đội một cái newsboy cap quá khổ. Với nhân vật bé John, Jackie Coogan là một trong những ngôi sao điện ảnh nhí đầu tiên của lịch sử điện ảnh, về sau nổi tiếng với vai Chú Fester trong phim bộ Gia đình Addams.

 

Tobey Maguire đội newsboy cap trong phim The Great Gatsby (2013). Cô ngồi bên cạnh đội một mũ cloche cách điệu. Mũ phụ nữ phương Tây thời kì này chỉ có cloche hat (tiếng Pháp: hình chuông) là nổi bật trong khi đó ở Việt Nam chẳng có mũ nào cho phụ nữ, từ Bắc chí Nam các cụ vẫn chỉ vấn khăn, đội nón lá hoặc mãi sau ở ngoài Bắc thì đội mũ cối của nam giới mà thôi. Đến nay mới thấy các bạn nữ trẻ bắt đầu ăn diện bằng cách đội mũ mềm rộng vành kiểu Tây.

 

Cảnh biểu tình trong Modern Times, giới công nhân hầu hết đội flat cap và newsboy cap. Nhân vật The Tramp thì đội mũ quả dưa.

Riêng ở Việt Nam giai đoạn này có một loại mũ cứng đặc biệt, tiếng Anh kêu là pith helmet, tiếng Pháp là casque colonial. Đây là loại mũ người da trắng đội ở các vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm nên nó đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa Thực dân châu Âu. Mũ này thường màu trắng, lúc mình còn nhỏ chỉ thấy có duy nhất bác bán tàu phớ là hay đội, giờ thì không thấy ai dùng luôn. Các cụ nhà ta sau này đã chế lại, nắn cho tròn và trở thành chiếc mũ cối huyền thoại, gắn liền với bộ đội miền Bắc.

Toàn quyền Albert Sarraut đội mũ casque colonial chụp ảnh cùng Vua Khải Định đội nón tại Hà Nội, 31/3/1918.

Tiếng Pháp có casque là mũ bảo hiểm cứng, casquette là mũ lưỡi trai nói chung. Từ điển tiếng Việt 2013 giải thích “cát két” là mũ mềm, chóp bằng hơi bẹt, thường bằng dạ hoặc vải, đằng trước có lưỡi trai nhỏ tức là đang nói đến flat cap còn “mũ cát” mới là mũ cứng, cốt làm bằng bần hoặc hải đồng, có vành, mặt ngoài bọc vải tức là casque (colonial). Mũ cát bọc vải trắng nên rất dễ bẩn, mà giặt thì nhanh hỏng nên thường chỉ bôi cái gì màu trắng lên che đi như dùng phấn chẳng hạn.

Mũ cát của Bác Hồ. Khi hầu hết mọi người đã dùng mũ cối thì riêng Bác Hồ vẫn đội mũ cát trắng đến cuối đời, có lẽ là để tiệp màu với bộ đại cán. Phần tiếng Anh dịch là “cap” (tức casquette!?). Hiện vật tại Đền thờ Bác Hồ tại xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.

 

Tìm trong bộ sưu tập mũ Việt Nam của ông Tai Odaka thì lại thấy ghi: mũ cát két dân sự sản xuất tại Chợ Lớn, tức là cát két = casque, có lẽ ông Odaka đã nhầm. Ngoài ra còn một chiếc mũ nữa trông y hệt mũ cối cũng được gọi là mũ cát két và giải thích vì thân thì thon hơn, chất liệu mềm và nhẹ hơn.

Một loại mũ khác cũng bị gọi tên không chính xác ở Việt Nam là mũ kêpi. Mũ kêpi ở ta để chỉ loại mũ cho lực lượng vũ trang, bán vũ trang như quân đội, công an, hải quan, kiểm lâm, thậm chí bảo vệ trông xe. Nhưng từ képi tiếng Pháp (và tiếng Anh) chỉ loại mũ hình trụ tròn, có lưỡi trai nhỏ đặc trưng trong quân đội Pháp còn loại mũ công an của mình tiếng Anh gọi là peaked cap. Quân đội Pháp chỉ đội mũ kêpi nên không có tên gọi chuẩn cho mũ này. Quân đội Canada gọi là casquette de service cho nam, chapeau de service cho nữ.

Tướng Charles de Gaulle chuyên đội mũ kêpi trong Thế chiến II.

Định thêm mấy loại nữa như kiểu mũ ca-lô (tiếng Pháp: calot) nhưng sợ bạn đọc tẩu hỏa nhập ma đi cạo đầu đội mũ ni nên đành dừng ở đây để chuyển sang áo khoác.

Áo khoác

Hai loại áo khoác Tây thường thấy thời Pháp mà ngày nay ở Việt Nam hiếm thấy, thường chỉ khi đại hàn, hoặc đi Tây mùa đông mới lôi ra mặc là măng-tô (tiếng Pháp: manteau) và bành-tô (tiếng Pháp: paletot). Từ điển tiếng Việt cho hai loại áo này là một nhưng thực ra áo bành-tô đúng kiểu Pháp luôn có hai hàng cúc, không có dải thắt lưng, may bằng vải dày như vải tuýt (tiếng Anh: tweed). Hai loại áo này tiếng Anh gọi là overcoat nghĩa là khoác ngoài tất cả, kể cả bộ suit.

Áo măng tô cổ lông chồn, biểu tượng quyền quý của phụ nữ một thời. Ngày nay các hiệp hội bảo vệ động vật ở phương Tây ra rả phản đối dùng lông động vật làm quần áo. Tranh của George Barbier – họa sĩ minh họa người Pháp lừng danh đầu thế kỷ 20, vẽ năm 1912.

Nam giới mặc áo măng tô không cẩn thận sẽ rất già, trông như các bác lãnh đạo đi thăm chính thức Liên Bang Nga ngay. Cần chú ý mấy quy tắc cơ bản: áo măng tô có vạt hơi ngắn sẽ làm tôn dáng, trông cao hơn. Loại có hai hàng cúc thì phải hơi bó, để khi không đóng cúc trông không bị thùng thình. Áo màu xám luôn luôn hợp thời trang, tránh màu đen. Màu xanh hải quân đi được với mọi màu suit, còn bác nào dân chơi thì hẵng mặc màu nâu sáng.

Louis Pascal, sơn dầu trên bìa cứng, 77 x 53cm, 1891 của Henri de Toulouse-Lautrec. Louis là con bà con dì với Henri, được vẽ với một khuôn mặt đẹp trai, đội top hat, áo măng tô rất đẹp. Top hat rất phổ biến ở Pháp lúc bấy giờ nhưng hình như không xuất hiện ở Annam. Họa sĩ đã thể hiện được cái sự vừa yêu vừa ghét của mình với nhân vật, một con người ăn diện bảnh bao nhưng trống rỗng trong tâm hồn, vô tích sự, bất cần đời.

Một loại áo khoác dài nữa, may bằng vải mỏng, bền, chống thấm như áo mưa, màu khaki, hay có dải thắt lưng, thường được gắn liền với hình ảnh thanh tra, thám tử là trench coat.

Nhân vật nổi tiếng nhất mặc kiểu áo này chính là Tintin. Bây giờ thì chẳng có mấy đàn ông (trừ các hotboy Hàn Quốc) mặc kiểu này nữa…

 

…mà chuyển thành mốt của nữ giới từ lúc nào không hay. Trong ảnh là Emma Watson mặc áo của Burberry.

Áo khoác ngắn, áo gió  mà ngày nay ai ai cũng mặc thì mình nhớ lúc bé mẹ vẫn gọi là blu-dông (tiếng Pháp: blouson) có phéc-mơ-tuya (fermeture) thế rồi dần dần giờ mẹ cũng quen gọi như mọi người là áo khoác có khóa kéo. (Chớ nhầm với blouse là áo blu trắng của bác sĩ, nhà khoa học nhé). Nhà của người Tây thường có tiền sảnh nhỏ, chỗ này luôn có móc để treo mũ và áo khoác, các hiệu cắt tóc hay chỗ dạ tiệc luôn có người đứng đón mũ và áo khoác của khách rồi treo lên.

Sự Tây hóa cao độ của Nhật Bản thể hiện ở từng chi tiết nhỏ như cái móc treo mũ áo chỗ tiền sảnh này. Nhà người Việt đến nay vẫn không thấy có chi tiết ấy. Cảnh trong phim “Vãn Xuân” (1949) của đạo diễn Yasujiro Ozu

Xin kết thúc bằng một bài đố vui (không có thưởng) xem bác nào có thể giải thích được tên gọi những phụ kiện mà một dân chơi nước ta đầu thế kỷ trước dùng để ăn diện, được miêu tả trong đoạn sau của nhà văn Nguyễn Tuân:

“Hồi ấy, anh nhà chú đẹp trai kia chứ đâu lại có như bây giờ ấy. Giày “dôn” củ nghệ, áo sa tây hoa mép đỏ, can bít bạc, bít tất lụa tím, mũ ca-dô-chê. Cu cậu cứ thế mà chúi xuống bếp thổi bếp gio, bụi cứ mù cả lên. Nghĩ tình, mình đâm ra cảm. Rồi là lấy nhau.”

 

Ý kiến - Thảo luận

13:43 Monday,14.12.2015 Đăng bởi:  candid
Nói em mới nhớ ngày xưa trẻ con đứa nào cũng biết làm cái dải băng giấy màu trang trí bằng cách cắt giấy màu rồi dán lại móc vào nhau gọi là xúc xích. Hồi trước em cứ nghĩ là gọi thế do nó giống xúc xích của Tây. Thế nhưng giờ có khả năng như bác dẫn cụ Ngô Tất Tố, ngày xưa có tính từ "xúc xích" mà giờ không dùng nữa.
...xem tiếp
13:43 Monday,14.12.2015 Đăng bởi:  candid
Nói em mới nhớ ngày xưa trẻ con đứa nào cũng biết làm cái dải băng giấy màu trang trí bằng cách cắt giấy màu rồi dán lại móc vào nhau gọi là xúc xích. Hồi trước em cứ nghĩ là gọi thế do nó giống xúc xích của Tây. Thế nhưng giờ có khả năng như bác dẫn cụ Ngô Tất Tố, ngày xưa có tính từ "xúc xích" mà giờ không dùng nữa. 
12:10 Monday,14.12.2015 Đăng bởi:  Đặng Thái
Bác Sương, bác Candid

Em thì nghiêng về phía "bít tất" là chữ Nôm, giống như bác Sương nói nghĩa là bịt/bọc kín hết cả bàn chân lại. Trong Lều chõng, cụ Ngô Tất Tố có viết câu sau:"Rồi cả bốn người cùng đội nón, khoác áo tơi, hai chân xỏ bít tất, sàm sạp bước xuống đất, với những đồ đạc đeo xúc xích ở vai và cổ".

Ngoài chữ bít tất ta thấy ở đây c
...xem tiếp
12:10 Monday,14.12.2015 Đăng bởi:  Đặng Thái
Bác Sương, bác Candid

Em thì nghiêng về phía "bít tất" là chữ Nôm, giống như bác Sương nói nghĩa là bịt/bọc kín hết cả bàn chân lại. Trong Lều chõng, cụ Ngô Tất Tố có viết câu sau:"Rồi cả bốn người cùng đội nón, khoác áo tơi, hai chân xỏ bít tất, sàm sạp bước xuống đất, với những đồ đạc đeo xúc xích ở vai và cổ".

Ngoài chữ bít tất ta thấy ở đây còn chữ "xúc xích", lúc này thì "xúc xích" là một tính từ cổ, chỉ một chuỗi vật dụng nối với nhau, ngày nay nó đã chuyển nghĩa thành danh từ do món dồi của Tây thường treo thành dải "xúc xích". Bít tất cũng có thể như thế lắm. 

(Đề nghị gõ chữ tiếng Việt có dấu và không viết tắt)

Tìm kiếm

Tiêu đề
Nội dung
Tác giả