|
|
|
|||||||||||||
Văn & ChữHọc dịch với Gấu: Pearls before Breakfast (phần 4) 18. 02. 14 - 7:18 pmGene Weingarten - Phạm Tuấn Anh dịchTiếp theo phần 1, phần 2, và phần 3 NẾU MỘT NHẠC SỸ VĨ ĐẠI CHƠI MỘT THỨ ÂM NHẠC TUYỆT VỜI NHƯNG KHÔNG AI NGHE THẤY… VẬY ANH TA CÓ THỰC SỰ LÀ MỘT NGHỆ SỸ GIỎI HAY KHÔNG? IF A GREAT MUSICIAN PLAYS GREAT MUSIC BUT NO ONE HEARS . . . WAS HE REALLY ANY GOOD? Đây là một tranh luận lâu đời về nhận thức luận, còn lâu đời hơn là câu đố về cái cây ở trong rừng(1). Plato đã suy nghĩ nhiều về nó, cũng như các triết gia của hai thiên niên kỷ sau đó: Cái đẹp là gì? Nó phải chăng là một thứ có thể đo được (Gottfried Leibniz), hay chỉ là một quan điểm (David Hume), hay là mỗi thứ một ít đồng thời được tô điểm bởi trạng thái hiện thời của tri giác người quan sát (Immanuel Kant)? It’s an old epistemological debate, older, actually, than the koan about the tree in the forest. Plato weighed in on it, and philosophers for two millennia afterward: What is beauty? Is it a measurable fact (Gottfried Leibniz), or merely an opinion (David Hume), or is it a little of each, colored by the immediate state of mind of the observer (Immanuel Kant)? Chúng ta sẽ tin theo Kant, bởi vì rõ ràng là ông ấy đúng, và bởi vì ông ấy đã đưa chúng ta khá trực tiếp đến với Joshua Bell, đang ngồi trong nhà hàng của một khách sạn, gẩy gẩy mấy đồ ăn sáng, và gắng gượng để hiểu xem cái quái quỷ gì đã xảy ra ở ga Metro hồi hôm. We’ll go with Kant, because he’s obviously right, and because he brings us pretty directly to Joshua Bell, sitting there in a hotel restaurant, picking at his breakfast, wryly trying to figure out what the hell had just happened back there at the Metro. ”Lúc đầu,” Bell nói, ‘Tôi chỉ tập trung vào chơi nhạc. Tôi không thực sự quan sát xem có gì đang xảy ra ở quanh mình…”” At the beginning,” Bell says, “I was just concentrating on playing the music. I wasn’t really watching what was happening around me . . .” Chơi vĩ cầm trông như một việc phải tập trung làm hết sức, cả về tinh thần cả về thể chất, nhưng Bell nói rằng đối với anh ấy thì những cơ chế của việc chơi nhạc đã trở thành một phần của bản năng thứ cấp, được củng cố nhờ thực hành và trí nhớ của bắp thịt: Giống như một người làm trò tung hứng, anh nói, có thể vừa tung hứng liên tục những trái bóng vừa giao tiếp với đám đông. Bell nói rằng khi chơi nhạc, anh chủ yếu nghĩ về việc nắm bắt cảm xúc trong khuôn khổ của một câu chuyện kể: “Khi chơi một bản nhạc vĩ cầm, bạn là người kể chuyện, và bạn đang kể một câu chuyện.” Với bản “Chaconne”, đoạn mở đầu chứa đầy một cảm giác ngạc nhiên tăng dần. Điều đó làm cho Bell bận rộn mất một lúc. Nhưng rồi cuối cùng thì anh ấy cũng bắt đầu kiếm cớ liếc ngang chút ít. With “Chaconne,” the opening is filled with a building sense of awe. That kept him busy for a while. Eventually, though, he began to steal a sidelong glance. “Đấy là một cảm giác lạ, khi thấy rằng người ta thực sự là, là…” Từ đó không đến dễ dàng. “. . . đang lờ tôi đi.” Bell đang cười. Tự cười anh ấy. “Trong một phòng hòa nhạc, tôi sẽ thấy khó chịu nếu ai đó ho hoặc nếu điện thoại của ai đó đổ chuông. Nhưng ở đây, những kỳ vọng của tôi giảm đi nhanh chóng. Tôi bắt đầu thấy cảm kích bất kỳ một sự công nhận nào, dù chỉ là một cái liếc nhìn nhanh. Tôi cảm thấy biết ơn một cách kỳ lạ khi ai đó ném vào một đồng đô la thay vì mấy đồng xu lẻ.” Tất cả những điều này được nói bởi một người mà tài năng có thể giúp kiếm được 1000 đô mỗi phút. Trước khi bắt đầu, Bell không biết phải chờ đợi cái gì. Điều mà giờ đây anh ấy CÓ biết, vì một lý do nào đó, là lúc ấy anh thấy lo lắng “Không chắc là nỗi lo phải lên sân khấu, nhưng tôi vẫn thấy trong bụng hơi run,” anh nói. “Tôi cảm thấy hơi căng thẳng một chút.” Bell đã từng chơi, theo đúng nghĩa đen, trước những cái đầu mang vương miện của châu Âu. Vậy tại sao lại có cái sự lo lắng đó ở một bến Metro của Washington? “Khi chơi cho những người mua vé,” Bell giải thích, “bạn đã được khẳng định rồi. Tôi không có cảm giác gì là tôi cần phải được người ta chấp nhận. Tôi đã được chấp nhận rồi. Ở đây thì khác vì tôi có ý nghĩ kiểu như: Nếu như họ không thích mình thì sao? Nếu họ ghét cái sự hiện diện của mình thì sao…” “When you play for ticket-holders,” Bell explains, “you are already validated. I have no sense that I need to be accepted. I’m already accepted. Here, there was this thought: What if they don’t like me? What if they resent my presence . . .” Nói ngắn gọn lại thì anh ấy đã giống như một bức tranh không có khung. Điều này, như chúng ta sẽ thấy, có liên quan rất nhiều đến những gì đã xảy ra — hay nói cho đúng nhất là những gì đã không xảy ra — vào ngày 12 tháng Giêng đó. MARK LEITHAUSER ĐÃ TỪNG CẦM TRÊN TAY NHIỀU TUYỆT PHẨM NGHỆ THUẬT HƠN BẤT KỲ MỘT VỊ VUA HAY MỘT GIÁO HOÀNG HAY MỘT LÃNH CHÚA (2) NÀO ĐÃ TỪNG CẦM. Là quản thủ cao cấp tại Phòng tranh Quốc gia (3), ông quản lý việc đóng khung các bức tranh. Leithauser nghĩ rằng ông ấy có thể giải thích phần nào về những gì đã xảy ra ở bến Metro. MARK LEITHAUSER HAS HELD IN HIS HANDS MORE GREAT WORKS OF ART THAN ANY KING OR POPE OR MEDICI EVER DID. A senior curator at the National Gallery, he oversees the framing of the paintings. Leithauser thinks he has some idea of what happened at that Metro station. ”Giờ cứ cho là tôi sẽ lấy một trong những tuyệt tác trừu tượng của chúng tôi, ví dụ như một bức của Ellsworth Kelly, và bỏ nó ra khỏi khung, đi xuống 52 bậc cấp mà người ta đi lên để vào Phòng tranh Quốc gia, qua mấy cây cột lớn, và mang nó vào trong một nhà hàng. Đây là một bức tranh có giá 5 triệu đô. Còn kia là một trong những cái nhà hàng nơi mà người ta treo để bán những bức tranh nguyên bản được vẽ bởi mấy cậu trẻ chăm chỉ học ở trường Corcoran, và tôi sẽ treo bức tranh Kelly đó trên tường với biển đề giá 150 đô. Sẽ không có ai để ý đến nó. Một quản thủ nghệ thuật có lẽ sẽ nhìn lên và nói: “Này, cái tranh kia trông hơi giống tranh Ellsworth Kelly. Đưa giùm tôi lọ muối.” “Let’s say I took one of our more abstract masterpieces, say an Ellsworth Kelly, and removed it from its frame, marched it down the 52 steps that people walk up to get to the National Gallery, past the giant columns, and brought it into a restaurant. It’s a $5 million painting. And it’s one of those restaurants where there are pieces of original art for sale, by some industrious kids from the Corcoran School, and I hang that Kelly on the wall with a price tag of $150. No one is going to notice it. An art curator might look up and say: ‘Hey, that looks a little like an Ellsworth Kelly. Please pass the salt.'” Ý ông Leithauser định nói là chúng ta đừng quá vội gọi những người qua lại bến tầu hôm đó là một lũ dốt không biết thưởng thức nghệ thuật. Hoàn cảnh có ảnh hưởng của nó. Kant cũng nói đúng điều đó. Ông đã nghiên cứu cái đẹp một cách nghiêm túc: Trong cuốn Phê bình Quan điểm Mỹ học(3), Kant đã lý luận rằng khả năng cảm thụ cái đẹp của một người liên quan đến khả năng của người đó trong việc đưa ra quan điểm về đạo đức. Nhưng ở đây có một điều cần lưu tâm. Paul Guyer của trường University of Pennsylvania, một trong những học giả hàng đầu về Kant của Mỹ, đã nói rằng triết gia Đức thế kỷ 18 này cảm thấy rằng để có thể cảm thụ một cách trọn vẹn cái đẹp, các điều kiện quan sát phải tối ưu. Kant said the same thing. He took beauty seriously: In his Critique of Aesthetic Judgment, Kant argued that one’s ability to appreciate beauty is related to one’s ability to make moral judgments. But there was a caveat. Paul Guyer of the University of Pennsylvania, one of America’s most prominent Kantian scholars, says the 18th-century German philosopher felt that to properly appreciate beauty, the viewing conditions must be optimal. “Tối ưu,” Guyer nói, “không có nghĩa là đang trên đường đi làm, chú tâm vào bản báo cáo sắp phải nộp cho ông sếp, hay có thể giầy của anh không vừa chân lắm.” Vậy nếu Kant đã đứng ở bến Metro xem khi Joshua Bell biểu diễn cho một ngàn người thờ ơ đi qua thì sao? “Ông ấy chắc chắn,” Guyer nói, “sẽ không kết luận một chút gì hết về bọn họ.” Và chỉ thế thôi. Mỗi tội không phải chỉ thế thôi. Để thực sự hiểu xem điều gì đã xảy ra, bạn cần phải tour lại đoạn băng video và cho nó chơi lại từ đầu, bắt đầu từ đúng lúc mà cây mã vĩ của Bell lần đầu chạm vào các dây đàn. Except it isn’t. To really understand what happened, you have to rewind that video and play it back from the beginning, from the moment Bell’s bow first touched the strings. Da trắng, quần kaki, áo da, xách cặp. Ngoài 30 tuổi. John David Mortensen đang đi chặng cuối cùng của tuyến đường đi làm bằng xe bus và Metro hàng ngày từ Không phải là anh ấy không có việc gì khác cần phải làm. Anh ấy là một người quản lý dự án cho một chương trình quốc tế ở Bộ Năng Lượng; vào ngày hôm đó Mortensen phải tham gia vào một cuộc họp hàng tháng về ngân khoản, không phải là phần việc thích thú nhất trong công việc của anh: “Chúng tôi phải xem xét lại những chi tiêu của tháng trước đó,” anh kể, “dự toán những chi tiêu cho tháng tiếp sau, nếu như chúng tôi có X đô la thì số tiền đó sẽ được chi cho việc gì, đại loại thế.” Trong băng video, bạn có thể thấy Mortensen đi lên khỏi thang cuốn và nhìn xung quanh. Anh ấy nhìn thấy người chơi vĩ cầm, dừng lại, rồi lại đi nhưng rồi lại bị kéo lại. Anh nhìn điện thoại xem lúc đó mấy giờ — còn 3 phút nữa anh mới phải đến chỗ làm — sau đó đứng tựa vào một bức tường và lắng nghe. On the video, you can see Mortensen get off the escalator and look around. He locates the violinist, stops, walks away but then is drawn back. He checks the time on his cellphone — he’s three minutes early for work — then settles against a wall to listen. Mortensen chẳng biết gì sất về nhạc cổ điển; rock cổ điển là thứ cổ điển nhất mà anh ấy biết chút ít. Nhưng có cái gì đó trong thứ âm nhạc mà anh đang nghe đây khiến anh thực sự thích. Mortensen doesn’t know classical music at all; classic rock is as close as he comes. But there’s something about what he’s hearing that he really likes. Vào cái lúc Mortensen đến thì Bell đã bắt đầu chuyển sang phần thứ nhì của bản “Chaconne” (“Là cái lúc mà,” Bell nói, “khi bản nhạc chuyển từ một cung thứ trầm rợn sang một cung trưởng. Đoạn đó có một cảm giác siêu thoát, tôn giáo.”) Cây vĩ của người nghệ sỹ bắt đầu nhảy múa, nhạc trở nên nhộn nhịp, vui tươi, biểu lộ, rộng lớn hơn. As it happens, he’s arrived at the moment that Bell slides into the second section of “Chaconne.” (“It’s the point,” Bell says, “where it moves from a darker, minor key into a major key. There’s a religious, exalted feeling to it.”) The violinist’s bow begins to dance; the music becomes upbeat, playful, theatrical, big. Mortensen không biết gì về các cung trưởng hay thứ cả: “Chẳng biết là cái gì,” anh ấy nói, “nhưng nó làm tôi cảm thấy thanh thản.” Mortensen doesn’t know about major or minor keys: “Whatever it was,” he says, “it made me feel at peace.” Thế là lần đầu tiên trong đời, Mortensen đứng lại để nghe một nhạc sỹ đường phố biểu diễn. Anh đã ở lại đúng khoảng thời gian 3 phút mà anh còn trong khi 94 người khác đi nhanh qua. Khi anh phải rời đi để giúp lập kế hoạch ngân sách dự phòng cho Bộ Năng Lượng, lại có thêm một thứ lần đầu tiên nữa. Lần đầu tiên trong đời, dù không biết có gì đã xảy ra nhưng cảm giác được đó là một điều đặc biệt, John David Mortensen đã cho tiền một nhạc công đường phố. (Còn tiếp) * (1) Câu đố về cái cây ở trong rừng. Ở đây từ câu đố tác giả dùng từ koan, một loại câu đố lòng vòng, vô nghĩa hay tự mâu thuẫn kiểu như câu đố: Nếu Chúa có thể làm được tất cả mọi điều thì ông ấy có thể tạo ra một hòn đá nặng đến nỗi mà ông ấy không thể nâng lên được không? Hay câu đố: Tiếng của một bàn tay vỗ thì kêu như thế nào? Câu đố về cái cây hỏi rằng: Nếu một cái cây đổ ở trong rừng mà không có ai nghe thấy thì nó có gây ra tiếng động nào không? Khúc mắc ở đây là tiếng động. Tiếng động là cái mà ta nghe thấy khi có sóng âm đến tai – nếu không ai ở đó để nghe thì cái cây đổ cũng không có ai nghe thấy và vì thế sóng âm không thể hiện thực hóa thành tiếng động được – hay là có? Câu đầu của đoạn này sử dụng mô thức này để đặt câu hỏi tương tự cho trường hợp của Bell “một nhạc sỹ giỏi chơi một thứ âm nhạc tuyệt vời nhưng nếu không ai nghe thấy thì có thực là nhạc sỹ này giỏi thật hay không?” – sự giỏi sự hay này có độc lập với người quan sát không? (2) Medici – lãnh chúa cai quản Florence (3) National Gallery – Phòng tranh của viện bảo tàng Smithsonian ở Washington (4) Critique of Aesthetic Judgement * SOI: Một số hình trong bài Soi không tìm ra tên tác giả, bạn nào biết thì bổ sung giúp nhé. Cảm ơn các bạn. * Pearls before Breakfast: - Học dịch với Gấu: Pearls before Breakfast (phần 1) - Học dịch với Gấu: Pearls before Breakfast (phần 2) - Học dịch với Gấu: Pearls before Breakfast (phần 3) - Học dịch với Gấu: Pearls before Breakfast (phần 4) - Học dịch với Gấu: Pearls before Breakfast (phần 5) - Học dịch với Gấu: Pearls before Breakfast (phần 6) - Học dịch với Gấu: Pearls before Breakfast (phần 7) Ý kiến - Thảo luận
22:09
Wednesday,19.2.2014
Đăng bởi:
Mimosa
22:09
Wednesday,19.2.2014
Đăng bởi:
Mimosa
Tâm lý thực là hay. Tác giả bài báo tuyệt vời quá. Bài báo tầng tầng lớp lớp, phục thật. Phải rất hiểu về nghệ thuật mới viết được như vậy. Bạn Gấu dịch hay ghê, mình học được nhiều. Cảm ơn bạn Gấu.
Bài đã đăng
» Xem tiếp... |
|||||||||||||||
|
...xem tiếp