|
|
|
|||||||||||||
Văn & ChữVườn lạ nhà ông Tư Sâm 08. 12. 15 - 7:26 pmLí Đợi
Ngạn ngữ đời nay có câu “Trẻ ra phố kiếm nhà, già về quê kiếm vườn” – nghe ra cũng chí lý. Nhưng với câu nói tưởng chừng như bâng quơ này, đâu phải ai cũng thực hiện được. Nhà ở phố nghe đã khó đi, mà vườn ở quê, sao cũng xa dịu vợi. “Đi”, xét trong một nghĩa nào đó, cũng được xem là “du” (ngao du), mà “du” thì phải có đi và đến, trong quãng giữa đi và đến ấy là “lịch” (lịch trình). Vậy nhưng, trong cái thời tàu xe chen chúc này, tưởng đi là dễ, nhưng đâm ra quá khó. Bao nhiêu thứ trong thời công nghiệp, thông tin, dịch vụ và tiện ích đã giữ chân ta lại một chỗ. Nhất là với các thành phố, cứ tưởng ở phố là có tất cả, nhưng thử kiếm một vườn cây để ngồi chơi, thì ngớ ra một chuyện, “công viên gốc cây” đã “biến/thiến” cành lá thành gốc hết rồi. Có một cụm từ mà thời nay hay “quán triệt” để xài là “lồng ghép”, hay “phối kết hợp”. Mà đi chơi, đi tìm một cái vườn để ngồi tào lao phét lác, uống trà, nhấm rượu, ca hát… cũng thật khó làm đơn lẻ. Cũng phải “phối kết hợp” mới được. Thật hổ thẹn khi kể ra điều này, chúng tôi đến vườn ông Tư Sâm cũng thế. “Lồng ghép”, “lập project” là đi thăm sức khỏe ông Tư, nhưng trong bụng tụi tôi, cũng có ý tìm nơi thoáng mát, cách thành phố vài giờ chạy xe, để “nạp lại pin”, vì pin sắp cạn hết rồi. Ông Tư Sâm là ai mà ở cái xóm nhỏ ở xã Hữu Định, Châu Thành, Bến Tre người ta hay tự hỏi: “Ổng làm chi mà già rồi lại đọc sách dzữ vậy? Sao hông nghỉ uống rượu cho phẻ cái thân?” Ông Tư Sâm là ai mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “người hiền của văn học Nam bộ”? hay một ý kiến khác nhận xét: đọc ông “để thấy quý trọng cuộc sống”? Ông Tư Sâm là ai mà quan điểm của ông rất giống với nhà văn Yury Trifonov (1925-1981) của Nga: “Chỉ cần biết có một người chịu khó đọc mình, cũng đủ thấy công sức mình bỏ ra trên trang giấy đã được đền đáp tốt”? Khoan hãy nói về ông Tư Sâm. Đây là chuyện trong vườn của ông. Nơi có 100 cây dừa mà ông nói vui rằng chẳng bao giờ mình có ý cố sống đến năm thứ 100, dù ông sinh năm 1924. Năm nay trông ông vẫn khá minh mẫn. Trên đường đến vườn ông Tư Sâm, anh tài xe nói rằng dừa Bến Tre cao hơn dừa Tam Quan khá nhiều, tán lá rộng, trái cũng to và xanh hơn. Người Bến Tre trồng dừa không phải để “chiến đấu ngang cường” như ta hay nói, mà là để giữ đất, giữ vườn, nơi đất vốn mềm và dễ sụp lún. Không có dừa, Bến Tre có khi đã thành hồ nước lớn (?); thành một “bến” nước lớn, còn “tre” có hay không thì chưa biết. * Nhìn hai bên đường, khi qua cầu Rạch Miễu mới xây, rộng chỉ 12m, nào hàng chục thứ dừa đóng hộp, đóng gói và dừa mỹ nghệ… Từ kẹo, bánh tráng, rượu… cho tới ông thần tài râu dài, ông thổ địa bụng to… cũng từ dừa mà ra. Anh tài xế tỏ ra am tường, dừa Bến Tre cũng khó làm giả lắm, đem dừa xứ khác đến thì biết ngay liền. Dừa Bến Tre còn kiện qua tới nước ngoài, và thắng kiện đấy. Ở Bến Tre, dừa cái gì cũng có, chỉ có mua nước dừa non để uống giải khát là khó thôi. Dân ở đây nói, nhà ai cũng có dừa, bán nước dừa làm gì! Trong cơn khát và thèm hương vị, tôi đành đánh liều xin một trái còn ở trên cây, trong chốc lát nó đã nằm trên tay, thật khoái vị – xứng cái công đi đường cả ngày. Ở trong vườn ông Tư Sâm, anh tài xế lo đi ngủ để dưỡng sức đường về, thành ra mọi người chỉ còn biết ngồi nhìn vườn dừa xanh, có chùm trái ngả vàng và nghe ông Tư kể chuyện đời xưa, đời nay. Ở phố lâu năm, nay được ngồi phủ phê dưới bóng gió, tự nhiên ai cũng lớ ngớ, ngồ ngộ, không kém gì cảnh ngày xưa mình mới cắp cặp ra phố, thấy nhà cao tầng, đèn đường ngọn xanh ngọn đỏ… Chuyện “mờ tỏ” ngày nay, hình như cũng toàn cầu hóa và hội nhập rồi. Ông Tư Sâm dân gốc Bến Tre, sinh ra tại đây, và ông cũng đã chọn chết tại đất này. Nhưng ông không nói về dừa, ông cũng chẳng nói về điều gì cụ thể hay tỏ ra quan trọng cả. Hình như cuộc sống hơn 80 năm đã là quá dài, quá sóng gió, quá phù phiếm… để ông còn có thể thấy hào hứng. Trong câu chuyện nhẹ nhàng, dí dỏm và đậm cốt cách Tây học, ông đã cho lũ trẻ tụi tôi nhiều điều ý vị. Sau vài tiếng đồng hồ hàn huyền đủ thứ, trong chậm rãi, vô ngại và vô ưu, mặc kệ thời gian chạy qua ngoài mương nước, bóng dừa râm dần, tôi chợt nhận ra rằng, nhờ bị cuốn vào các câu chuyện, mình đã đi thăm ông Tư thật, chứ không phải đi để tìm vườn. Ngồi ngay trong vườn, bình yên, và gần như không có cuộc điện thoại nào reo, tôi thấy sự “trở về” cũng không quá khó khăn như mình tưởng. Nhìn một vòng các gương mặt anh em, khi chiều xuống, vườn lá không còn xanh nhờ nắng, nhưng ai cũng rạng rỡ vì thư thái, pin đã được phục hồi. Tôi cũng chợt hỏi, tìm một chút tĩnh tâm, hay tỏ ra tập trung để thư giãn, với dân phố khó đến như vậy sao? Hay do phố thiếu vườn, trầm tư với cây cột điện hoài cũng chán! Rồi cả cái “tâm địa” mượn cớ đi thăm ông Tư Sâm, có vẻ như chẳng còn là duyên cớ nữa; nó trở thành quãng nghỉ ngắn ngủi trong năm của một công dân máy móc và thời điện tử. * Còn đây là ông Tư Sâm. Tên thật là Võ Trọng Cảnh, thỉnh thoảng người ta thấy ông ký là Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm… nhưng thường xuyên hơn cả, là Trang Thế Hy. Với quan niệm viết lách như đã nói ở trên, những truyện ngắn trong các tác phẩm như Nắng đẹp miền quê ngoại (1964), Anh Thơm râu rồng (in chung, 1965), Mưa ấm (1981), Người yêu và mùa thu (1981), Vết thương thứ 13 (1989), Tiếng khóc và tiếng hát (1993), Nợ nước mắt (1993)… dù rất đặc sắc, nhưng cũng đã tìm lối hẹp mà đi. Những bài thơ của ông cũng thế, chuyển động thật nhẹ nhàng và hẹp lối… Ông là một trong những gương mặt xuyên suốt và tiêu biểu của văn học Nam Bộ, nhưng ít người biết tiếng. Khi sắp ra về, tôi muốn chụp vài cây dừa ngoài vườn, ông Tư nâng ly rượu nhỏ, rồi chậm rãi nói: “Đừng chụp vườn nhà tôi, cỏ rác và lụp xụp, nghe tội nghiệp cho mấy thân dừa Bến Tre” – đó là nhận xét duy nhất của ông về cây dừa, suốt buổi nói chuyện. Nghe theo lời, tôi đành chụp lối vào và mấy cây dừa nhà hàng xóm. * Rồi thêm một đêm cũng loanh quanh với dừa, khi ra về, ai cũng mệt mỏi vì không ngủ, vì quá nhiều rượu, vì cái tình sao mà đậm đà, không uống không được. Nhưng chỉ một ngày hôm sau, khi thành phố và các công việc của nó lại hiện ra trước mắt, tôi dường như thấy ngay rằng chỉ một buổi chiều đó thôi, trong khu vườn khá bình thường ấy, mình đã tìm lại được lý do để trở lại với đời sống thường nhật này. Một câu chuyện có thể không thành cấu tứ đã diễn ra trong vườn ông Tư Sâm, và có người đã tìm lại được chút bình yên cho mình. “Đi” có nghĩa là “du”, là “lịch”, là “ngoạn”. Mong rằng chút kinh nghiệm nhỏ này sẽ trở thành gợi ý cho những ai biết “phối kết hợp” đi với công việc và sẽ biết chớp lấy những “nguồn sạc” cho pin của riêng mình, không cứ chi ở vườn ông Tư Sâm. Ngồi bất kỳ đâu, miễn trong vườn lá xanh yên bình, nếu không toan tính điều gì, đó là một cơ hội sống. Và cũng là một quà tặng, giản dị, nhưng ngày càng khó kiếm. Sài Gòn 16. 9. 2009 * Nguồn: Từ Fb của Lý Đợi Ý kiến - Thảo luận
13:07
Wednesday,9.12.2015
Đăng bởi:
Tám Thơm
13:07
Wednesday,9.12.2015
Đăng bởi:
Tám Thơm
Cảm ơn Anh Nguyễn. Bài thơ "Cuộc đời" mà trong bài Anh Nguyễn dẫn hay lắm, trong đó có đoạn này:
12:53
Wednesday,9.12.2015
Đăng bởi:
Anh Nguyễn
Hôm nay đọc được bài này trên page của nhạc sĩ Phạm Duy về nhà văn Trang Thế Hy, xin phép copy ra đây:
12:53
Wednesday,9.12.2015
Đăng bởi:
Anh Nguyễn
Hôm nay đọc được bài này trên page của nhạc sĩ Phạm Duy về nhà văn Trang Thế Hy, xin phép copy ra đây: Bài đã đăng
» Xem tiếp... |
|||||||||||||||
|
Cảm ơn Anh Nguyễn. Bài thơ "Cuộc đời" mà trong bài Anh Nguyễn dẫn hay lắm, trong đó có đoạn này:
"...
Rồi đôi ta nhìn nhau
Không có ai đánh mà lòng đau
Em mời ăn bánh ngọt
Nhắc củ khoai sùng mình lượm mót
Đường bánh tươm vàng mơ
Như nắng chiều xưa khoe màu tơ
Mới cầm tay chư
...xem tiếp