Gẫm & Bình

Mới chạy mà bình xăng đã cạn 01. 08. 11 - 7:29 am

Bài và ảnh: Trần Lương

(Tham luận tại hội thảo “20 năm mỹ thuật thời kỳ đổi mới 1986-2006” do Viện Mỹ thuật, trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội tổ chức tại Hà Nội ngày 10 tháng 5 năm 2007. Sau đó in trong cuốn Essays on MODERN AND CONTEMPORARY VIETNAMESE ART. Bảo tàng Mỹ thuật Singapore xuất bản 5/2008).

*

Cái máy trộn bê tông cơ nhỡ (2007)

Mỗi lần vỡ ra một cái gì đó mới mẻ, lòng tôi – hay chắc rằng không ít ai đó – cũng háo hức tin và chờ đợi một thành tựu mới. Thế rồi chạy đến giữa nẻo đường, một cảm giác mang máng về “bình xăng” hình như sắp cạn…

20 năm là đơn vị thời gian không lớn mà cũng không nhỏ, vấn đề ở chỗ: 20 năm đặc biệt đầy biến cố mà ở đó, nếu nghệ thuật không phản ứng gì, không thay đổi mới là lạ!

Trong lịch sử nghệ thuật hiện đại và đương đại thế giới, 20 năm là đơn vị thời gian để những lần nghệ thuật mới đủ chín muồi và bắt đầu ảnh hưởng (hóa thân) đến thẩm mĩ đại chúng, hay nói cách khác là tan ra thành văn hóa POP. 20 năm phát triển nghệ thuật của ngày nay tương đương với đơn vị 200 năm phát triển nghệ thuật trong quá khứ – điều tương tự xảy ra với khoa học, công nghệ.

Vậy “20 năm ấy” cũng đủ và đáng để nhìn lại rồi.

Tôi muốn chia sẻ cảm giác của mình về một cái “ngoái lại”, rất riêng tư, vì bản thân là một sợi nước của cả dòng chảy, vậy cũng có thể coi bài viết này như một sự tự phê phán.

*

Nếu sự thay đổi của ngôn ngữ và nội dung trong hoàn cảnh mới là tất yếu, thì dường như mỹ thuật đổi mới chỉ là sự tiếp nối khá “hành chính” từ thế hệ họa sĩ Đông Dương. Với tôi, đó là sự tiếp nối mờ nhạt. Tại sao?

Thứ nhất, về đề tài:

Việc chuyển từ đề tài Công, Nông, Binh, Trí sang Chim, Hoa, Cá, Gái đơn giản chỉ là sự trở về quá khứ mà thôi vì bao đời nay nghệ thuật Đông Á đã lấy Chim, Hoa, Cá, Gái làm đối tượng cho mỹ thuật rồi. Trong khi thực tế đời sống của cả giai đoạn trước đây và sự chuyển biến mạnh mẽ đương thời là nguồn chất liệu dồi dào cho sáng tạo. Thế mà tác phẩm đổi mới lại chẳng thấy bóng dáng hiện thực đâu!

Có thấp thoáng trong tranh nông thôn của ông Hiếu (Hà Trí), hay khăn khẳn hiện thực của ông Hà (Lê Quảng), hay mơn man gái đẹp của ông Thái (Lê Hồng), hay phô bày giới tính của ông Tân (Trương)… Số còn lại đều ngửa mặt nhìn về miền không tưởng: về những đạo đức của sĩ phu, thanh sạch thuần khiết của tiên Phật, những thất tinh, bát quái càng bí hiểm càng ăn ảnh, những nông thôn, thiên nhiên, con người tươi đẹp (và cũng lạc hậu) như từ thời chưa có xe máy Honda vậy.

Ở chỗ trà dư tửu hậu thì cộng đồng mỹ thuật của ta luôn chat chit rôm rả, cái gì cũng biết hết, biết hết! Nào là: hoặc trào phúng chỉ trích, bức xúc bàn cãi hăng lắm, hoặc gia ơn đã từng cứu, từng giúp ai đó và thông cảm lắm!

Chỉ tội đến khi đáo sự, hay tác phẩm ra trước công luận lại méo mồm, bóp mũi giả giọng “nhà đài”! Hiện thực duy nhất của giai đoạn nghệ thuật này là sự né tránh hiện thực!

Liệu đã đến lúc để thú nhận chưa? Rằng mỗi nghệ sĩ luôn thường trực một cái la bàn tự kiểm duyệt trong đầu? Suy từ mình ra phải nói thật đó là thời kì khôn chả ra khôn, mê chả ra mê!

Trương Tân trong bể lươn và bánh mì. Trình diễn tương tác tại triển lãm Con Dream của Trần Lương, Nhà Sàn studio năm 2000

Thứ hai, về ngôn ngữ:

Sự tiếp nối thế hệ Đông Dương trong ngôn ngữ hội họa là logic và tất yếu nếu điều kiện và ngữ cảnh cuộc sống không thay đổi nhiều về nhịp, về quan hệ, về không gian và về chất. Theo lẽ thường thì nghệ thuật phản chiếu một cách trung thực không gian tâm lý của xã hội. Nhưng đôi khi nghệ thuật còn đòi hỏi và “ngửi” thấy “thời tiết” của tương lai và dự báo bằng những tín hiệu ngôn ngữ của mình.

Giai đoạn Đổi mới, từ sau năm 90, xã hội Việt Nam đã bắt đầu thay đổi về nhịp, về quan hệ, về không gian và về chất. Điều này đòi hỏi nghệ thuật nếu không dự báo trước được thì cũng phải bắt đầu tìm ngôn ngữ mới nhằm thỏa mãn với lịch sử, với tương lai về những thay đổi trên.

Một sự gợi ý khá thú vị và mang tính tiên phong trong tranh của ông Quân (Nguyễn): dùng nhiều phương tiện diễn tả hơn trên cùng một mặt phẳng, như những mảng da thịt phụ nữ được tả nuột, bên cạnh những mớ chấm, phẩy, cào mang hơi thở của thư pháp hành vi. Người và vật đã bồng bềnh không trọng lượng hơn, người không phải là chính, hoa lá không phải là phụ… Đây là minh họa rõ cho thấy sự đòi hỏi một ngôn ngữ khác, đa thông tin hơn, nhiều tầng đối thoại hơn.

Rất tiếc, sự gợi ý này có ảnh hưởng chút nào đó đến giới trẻ, thì chỉ ở cấu trúc đề tài, mà ít ảnh hưởng đến cấu trúc ngôn ngữ. Đại đa số nghệ sĩ Đổi mới vẫn trói mình cần mẫn trong nét tút (touche de peinture) nhận được từ ngôn ngữ sơn dầu châu Âu! Đam mê tút tát, dạy, tạo ma-che (matiére) bằng sơn dầu, đam mê này vô tình như một thứ ma túy, tự mình thu hẹp các phương tiện biểu đạt rất phong phú khác, thu hẹp các khả năng thể hiện cảm xúc và thái độ với cuộc sống đang chuyển biến hôi hổi quanh mình.

Cột trụ, trình diễn của Nguyễn Trí Mạnh, Ryllega Gallery (2006)

Có thể liệt ra đây 7 điểm là rào cản cơ sở đã làm cho mỹ thuật gọi là đổi mới mà không thay đổi cơ bản được ngôn ngữ. Sự cản trở này chính là: Các khái niệm cơ cấu nghệ thuật không chuyển biến gì trong đầu của nghệ sĩ, các nhà chuyên môn và sau đó là hệ thống quản lý văn hóa.

1. Khái niệm cố hữu về sự công phu: Tác phẩm mỹ thuật phải là kỳ-công-phu, vì thế mà nghệ thuật khái niệm (conceptual art) chưa được chấp nhận, còn bị coi như trò đùa hay phản nghệ thuật. Tính công phu đã không còn là điều kiện bắt buộc từ khoảng những năm 1950 của thế kỷ trước, khi tiền thân của nghệ thuật khái niệm: họa sĩ Barnett Newman (1905-1970) đã chỉ bôi một sắc độ màu trên cả tấm toan (đương thời người ta xếp tác phẩm của ông vào trường phái tối giản – minimalism) Thực ra, tác phẩm khái niệm này đã là một bước thay đổi về chất của tiến trình phát triển mỹ thuật khi mà: sự gợi ý thị giác từ tác phẩm làm người xem đã suy nghĩ nhiều hơn là tiếp tục thưởng thức kí hiệu thông qua kênh nhìn thấy. Không phải ngẫu nhiên mà mới đây tên Barnett Newman đã được đặt cho một quảng trường nhỏ ở trung tâm thành phố New York.

2. Khái niệm về chất liệu: Chỉ thừa nhận các chất liệu hàn lâm và là vật thể tĩnh và bền vững, không chấp nhận chất liệu biến chuyển, phi vật thể, hay thay đổi liên tục, hoặc phân hủy…

3. Về phương tiện nghệ thuật: Chỉ vẽ, đục, chạm, khắc, in… là phương tiện chính thống. Quay, chụp, hành vi cơ thể, mạng ảo, âm thanh, ngôn từ… không được coi là phương tiện của Mỹ thuật.

4. Về không gian nghệ thuật: Chỉ chấp nhận trong khuôn viên bảo tàng, gallery, hay những nơi mặc định. Các không gian khác (alternative) được coi là không tồn tại (như tác phẩm dành cho một không gian cụ thể trong đời sống thực, những nơi và phương tiện công cộng như ga tàu, trên taxi, xe bus, nhà vệ sinh, thang máy, trên cơ thể người… hoặc trong siêu không gian như land art…)

5.Về mối quan hệ tác giả – tác phẩm – công chúng – giới chuyên môn: Rất áp đặt một chiều. Không có không gian đối thoại công bằng, không có sự tương tác trong phát triển ý tưởng và cả hành vi sáng tạo giữa các đối tác trên.

6.Khái niệm về tư cách chuyên môn của một nghệ sĩ thị giác: Phải có bằng cấp, phải biết vẽ, biết nặn tượng, ngược lại có thái độ coi thường người tự học, coi thường sự hồn nhiên trong sáng tạo, coi thường nghệ thuật hành vi…

7. Và sự cố kết với các chuẩn “cái đẹp” được thừa kế từ các nguồn của nền văn mình loài người. Thoạt nghe tưởng hay nhưng thực ra điều này đã bít chặt khả năng biểu lộ sự đa dạng trong cá tính, cái tôi với cả những bồng bột, ngây ngô đáng quý. Cụ thể là đã có thời chỉ cố khoe sự lịch duyệt trong nét bút và phảng phất bóng dáng các mét (các danh họa) phía sau, sự tự hào này có tên là nghệ thuật “đại lộ”.

Cuối cùng vẫn phải nói thêm về sự hiện hữu của một lô các barrier, các barrier kiểm duyệt này có chung hai phương tiện ngăn cản khổng lồ là “trái với thuần phong mỹ tục” và “không phù hợp” (đây là câu cửa miệng của các quan chức kiểm duyệt văn hóa khi từ chối cấp phép cho những sự kiện văn hóa). “Không phù hợp” là rất mơ hồ, chẳng có tiêu chuẩn luật, đạo đức hay khả năng biểu đạt của ngôn ngữ nào cả. Còn trong tường hợp “trái thuần phong mỹ tục” thì các tiêu chuẩn đạo đức lạc hậu của phong kiến thối nát được lôi ra áp dụng rất hữu hiệu tận đầu thế kỉ 21! Ví dụ cụ thể là tiếng nói mỹ thuật của người giới tính thứ ba bị từ chối không thương tiếc đã 13 năm cho đến nay (tính từ triển lãm của Trương Tân bị cấm năm 1995 đến 2007). Chúng ta đừng quên rằng họ (những người đồng tính) là cộng đồng chiếm ít nhất 2% dân số của đất nước hơn 80 triệu dân này và họ đã phải ẩn mình hai nghìn năm qua trong thiếu thốn hạnh phúc (tham khảo: cộng đồng này ở Mỹ là 4% dân số).

Giếng di tích (vì đã cạn nước gần chục năm nay). Cắm tấm diến dặc đồ (cấm tắm giếng giặt đồ) được viết bởi trưởng một thôn ở huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa (2007)

Triết học kinh tế của ta thực chất đã phá giới rồi! Bao nhiêu thứ hay, thứ dở đã lộ diện. Nghệ thuật có lúc những tưởng đã giải phóng, đã đi trước. Nhưng hóa ra giờ này vẫn còn lùng nhùng những vấn đề đã xảy ra ở các nước hàng xóm từ 15 năm trước!

*
Một sự so sánh có vẻ khập khiễng nhưng cứ ám ảnh tôi mãi và càng nghĩ càng thấy đúng: Hai thập niên qua mỹ thuật Việt Nam phát triển giống bóng đá Việt Nam quá! Trong đó, tinh thần chung của cả hai là hoang tưởng!

Cơ sự không biết mình, biết người dẫn đến bệnh dùng mỹ từ vô độ trong mọi mặt của cuộc sống trong đó mỹ thuật Việt Nam cũng luôn luôn “thành công rực rỡ”!

Thực tế thì sao?

Các triển lãm tự tổ chức của các nhóm và cá nhân bập bõm, nghệ sĩ nhanh chóng phân hóa. Không cần thóc mách thì cũng nhận ra rằng: ngoài sự tự che mắt trước hiện thực, công cuộc sáng tác của mỗi nghệ sĩ còn bị chi phối quá mức bởi một loạt các mômen ngoài nghệ thuật như: cuộc sống thay đổi với free market và vật chất được biểu dương, các gallery kèm sát thúc bách… Nghệ thuật phát triển theo kiểu điện lạnh, nóng thì mua quạt và điều hòa, lạnh thì mua lò sưởi, áo rét. Tùy theo thị trường trồi sụt, tùy theo cấp độ mở cửa quản lý. Vai trò của ngành curatorial đáng ra đã cần thiết từ 17 năm trước, nhưng cho đến hôm nay vẫn ở tình trạng có cũng được, không có cũng chẳng sao! Tác phẩm tốt tuồn ra nước ngoài hết, hoặc hoang phế (với các tác phẩm phi lợi nhuận). Sau cuộc triển lãm 16 người năm 1989 không còn cuộc biểu dương nghệ thuật đổi mới định kì nào nữa.

Không nói đến chuyện lờ đi việc sưu tầm mỹ thuật đổi mới, nhưng chỉ tính riêng cái thái độ thiên kiến thì Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Việt Nam đã tự loại trách nhiệm của mình với dân tộc, với lịch sử rồi. Sự vô trách nhiệm của các cơ quan chức năng văn hóa là thực tế tồn tại và hình ảnh về câu chuyện bộ sưu tập của ông Đức Minh còn như xát muối đó!

Vậy có thơ rằng:

Suối nghệ thuật luồn trong nắng hạn
Mưa hành chính lững thững non tiên

Trung tâm mỹ thuật đương đại Hà Nội


Trước ngày khai mạc triển lãm tại trung tâm năm 2002

Tôi tự hỏi: Những gì làm tắc nhịp phát triển tưởng như “rực rỡ” đến nơi, hồi đầu mở cửa?

– Trước tiên là hiểu lầm về mình trong đó sự ngây thơ và hào hứng là tinh thần chung. Nó hao hao như việc ông Hai Lúa làm máy bay trực thăng vậy. Vốn kinh nghiệm cơ bản của thợ thủ công mà lại nhầm là vốn tri thức của nhà khoa học. Kĩ năng và tự mày mò là yếu tố của thợ thủ công không đủ cho nghệ sĩ chạy đường dài, vì vậy mới chóng hết xăng!

– Môi trường phát triển của mỹ thuật 20 năm qua bị lệch: cuốn theo thị trường bùng phát mà không lo xây dựng hạ tầng: Giáo dục và đào tạo, khuyến khích và tài trợ, tổ chức và quản lý… Phía quản lý vẫn áp dụng lối lãnh đạo nghệ thuật thời chiến xưa cũ, và cơ bản là lo cho quyền lợi của thể chế hơn là cho đất nước. Họ không thấy rõ vai trò và chất lượng của: tri thức hàn lâm, môi trường làm việc, cập nhập thông tin, trao đổi giao lưu…

– Thiếu sự đóng góp của mỗi cá nhân. Liệu quan niệm “tôi làm nghệ thuật tốt là tôi đóng góp cho phát triển xã hội rồi” có lạc hậu và ích kỉ không? Có thể chúng ta biết và muốn làm việc gì đó nhưng chúng ta chưa làm, có thể chúng ta có nội lực nhưng ai tập hợp và bật nội lực đó lên, có thể nhiều người trong chúng ta hiểu biết nhiều lắm nơi trà dư tửu hậu, nhưng lại vắng bóng ở nơi thực hành. Còn xa lắm giữa nói và làm!

Gợi ý biểu tượng cho tổng cục du lịch (2010)

*

Một nền nghệ thuật nếu không ở tầm nở ra không biên giới, đem lại nghĩ, sướng, tái sáng tạo, nhân văn và thông thoát… cho mọi tầng lớp, mọi màu da, thì ít ra cũng hữu dụng ở tầm địa phương, ngấm vào, làm cho đời sống dân sinh duy mỹ, nhân đạo, đa dạng và có bản sắc hơn.

Tôi xin đi ngược từ ngoài vào:

Hồi 1: Vị trí của mỹ thuật Việt Nam nằm ở đâu trong tương quan với khu vực và thế giới?

Cũng như bóng đá lấy huy chương quốc tế và khu vực làm thước đo trình độ phát triển, trong thời buổi toàn cầu hóa này, liệu có được không khi mỹ thuật lấy các bảo tàng có uy tín, các liên hoan mỹ thuật thường niên nội địa và quốc tế làm chỗ dựa và thước đo cho phẩm cấp?

Vậy, dạo quanh hoàn cầu này mà xem, mỹ thuật Việt Nam xuất hiện thế nào?

Gạo Việt Nam xuất khẩu là thế, vậy mà khi vẩn vơ ở các góc trời chỉ thấy các thương hiệu gạo Thái Lan, gạo Surinam… Đến các bảo tàng uy tín, hay các bộ sưu tập hàng đầu thế giới, riết đã thành thói quen khi chẳng mảy may hy vọng gặp một cái tên nghệ sĩ Việt Nam. Rồi tôi tự nhận ra rằng: tâm lý  tự ti về văn hóa khi ra ngoài trái ngược với tâm lý  tự hào về tranh đấu là phổ biến của người Việt. (Xin không bao gồm sự tự hào về nón lá, áo dài, con trâu, nước mắm, thậm chí rất nhiều người Việt vẫn “tưởng” trống đồng – gồm cả trống Đông Sơn – là đặc sản riêng của Việt Nam!)

Nhưng rồi cũng tạm ấm lòng khi bất ngờ gặp tác phẩm của một vài nghệ sĩ đương đại người Việt ở hải ngoại, còn với những nghệ sĩ nội địa thì chúng ta chỉ thấy hun hút bóng chim tăm cá mà thôi, ở đây chỉ mới nói đến “sự xuất hiện” thôi chứ chưa nói đến sự xuất hiện đặc sắc, gây chú ý.

Còn ở tầm khu vực chỉ có hai bảo tàng (tầm trung) là chịu khó chú ý đến Việt Nam: Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Singapore (Singapore Art Museum) sưu tập tranh hiện đại còn bảo tàng Nghệ thuật Châu Á Fukuoka (Fukuoka Asian Art Museum) thì có cả tác phẩm hiện đại và đương đại, sự quan tâm của họ đến mỹ thuật Đổi mới và đương đại Việt Nam còn hơn đứt Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Bộ mặt của mỹ thuật quốc tế đương thời được giới thiệu chủ yếu ở các liên hoan mỹ thuật thường niên Biennale và Triennale (B&T), các B&T đã trở thành nơi họp mặt của các nghệ sĩ thị giác tiềm năng và hàng đầu trên khắp thế giới và trở nên phổ biến từ hơn bốn chục năm nay, trong đó sự xuất hiện của các nghệ sĩ Việt Nam ở các liên hoan này là không đáng kể! Có trên dưới chục người trong khoảng chục năm trở lại đây đã tham dự các B&T quốc tế uy tín ở tầm trung bình như Asian Pacific Triennial, Queensland, Úc; Liverpoon Biennale, Anh; Gwangju Biennale và Busan Biennale, Hàn Quốc; Fukuoka Triennale, Nhật Bản; Havana Biennale, Cuba… Trong đó hết già nửa là tham dự ở các hoạt động trong khuôn khổ tạm gọi là satellite – vệ tinh). Gần đây B&T đã lan tỏa đến các khu vực của thế giới thứ ba, và gần ta nhất là Trung Quốc và Đông Nam Á. Thật đáng tiếc, khái niệm này dường như còn xa lạ với đại đa số nghệ sĩ tạo hình ta, chẳng ai nói ra, cũng chẳng ai thắc mắc hay tìm hiểu xem nó thực sự là cái gì.

Một thế hệ nghệ sĩ (thể hình) rất còi! Lễ cưới của Lê Vũ ở Quảng Ninh (2008)

Có người vẫn dạy: “Không cần so bì với các quốc gia khác, nghệ thuật là cá biệt và mất thời gian thẩm định” ý nói nghệ thuật ta hay đấy, đừng tự ti, cứ làm đi. Rồi “đừng phàn nàn, khó khăn thế này đã ăn thua gì, trước tiên cứ phải chứng minh mình đã”.

Đã đành ai cũng biết không làm việc là chết, khó khăn thì phải tự vượt, nếu chờ đến khi đã có ai để ý đến thì chẳng làm nên cơm cháo gì. Không nên tự ti cũng chẳng tự tôn. Điều này là thực tế với những ai làm hội họa đổi mới (post Doi Moi) những năm 80 đến giữa những năm 90, và các môn nghệ thuật mới (contemporary arts) từ năm 95 đến nay. Nhưng có làm việc thì cũng có so bì và có phàn nàn cũng là tự nhiên và là bản chất bình dân của nghệ sĩ. Chứ thông suốt tương lai như nhà tiên tri, hay ngoảnh mặt với thực tế như tiên ở ẩn, hay bình chân như vại đều là tư chất của người ngoài nghệ thuật và nhất là trong thời đại này thì đó còn là thái độ của người bất lực.

Về mối quan hệ nghề nghiệp thì dường như không thấy một mối quan hệ nào giữa các cơ quan hội đoàn và quản lý mỹ thuật với các tổ chức và cơ chế mỹ thuật chuyên nghiệp uy tín trên thế giới (tôi nhấn mạnh chữ chuyên nghiệp, vì hình như chuyên nghiệp thì không hợp thuần phong mỹ tục của ta thì phải?). Tư nhân thì có vài mối quan hệ bập bõm nhưng vướng phải rào cản cơ chế thành ra không lớn lên được. Tôi biết một nhà phê bình gạo cội ở thành phố New York nhận được tài trợ để sang Việt Nam nghiên cứu, nhưng trầy trật mãi không sang được vì không cơ quan văn hóa nào ở Việt Nam chịu tiếp nhận, trong khi điều kiện cấp tài trợ của quỹ quốc tế nọ là phải có một viện văn hóa phía đối tác Việt Nam tiếp nhận.

Vẫn là cách quản lý và phát triển văn hóa có thâm niên đạt kỷ lục Ghi-nét: cách chắc cú và an toàn nhất là tự đánh giá mình, tự chơi với mình, tự phong danh hiệu cho mình. Chung quy ra vẫn là tự lập tự cường trên tinh thần mà phải áp dụng một câu của bóng đá mới tả hết được: “Vừa thổi còi vừa đá bóng”! Hay nói không quá lời là “thủ dâm sướng hơn giao lưu”.

Vậy có thơ rằng:

Mịt mờ danh tính đâu không thấy
Vào ra luẩn quẩn lối không thông

Chủ nghĩa hồn nhiên hiện diện ở khắp nơi (2007)


… và lăng mộ tiền tỉ bạt ngàn ở nơi vốn là làng chài nghèo An Bằng (?!) huyện Phú Lộc –Thừa thiên-Huế (2010)

Thôi thì cứ cho là ta thiên tài đến mức cá biệt không cần mặt bằng quốc tế, nghệ thuật của ta có thuần phong mỹ tục riêng, chỉ có ta hiểu được, ta cứ làm một ốc đảo vĩ nhân, coi quốc tế chả là cái đinh gì. Nhưng đã nhìn nhận tổng thể về một giai đoạn kết thúc cách đây 10 năm, thì tự nhiên phải xem xét thành tựu của giai đoạn này có ảnh hưởng gì đến đời sống hàng ngày của dân ta. Vậy nhân dân Việt Nam được hưởng tiện ích gì từ các vĩ nhân nội địa? Xin mời xem tiếp hồi sau.

Hồi 2: Mỹ thuật Việt Nam 20 năm qua đem lại tiện ích gì cho đời sống văn hóa tinh thần người Việt?

Tình trạng, hoàn cảnh:

1. Số lượng bảo tàng nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói riêng, cũng như các trung tâm nghệ thuật rất rất ít! Cả nước chưa đếm hết một bàn tay! Không bảo tàng nào có chương trình giáo dục nghệ thuật! (tham khảo: nước Singapore nhỏ bằng 1/20 cả dân số và diện tích so với nước ta có 25 cơ sở)

2. Không có chương trình giáo dục nghệ thuật phổ thông tầm quốc gia. Kiến thức về mỹ thuật trong dân chúng là ngô nghê nhất trong mặt bằng chung tri thức phổ thông.

3. Tranh (các vật phẩm mỹ thuật độc bản) được bán cho người nước ngoài đến 99%. Heritage – tạp chí của hàng không Việt Nam – chịu in tranh và giới thiệu tác giả nhất nhưng chỉ dành cho ai có tiền đi máy bay mới được xem. Tờ Tạp chí Mỹ thuật chính thống không chịu đến với công chúng chính vì chất “chính thống” của nó, và vì hình thức xấu, biên tập và phát hành kém. Một tờ Mỹ thuật khác in đắt, trình bày đẹp hơn thì lại là sản phẩm bán tên và theo thị hiếu báo lá cải.

4. Đại đa số nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật không có ý thức tham gia các chương trình nghệ thuật phát triển cộng đồng.

5. Sự thiếu chương trình giáo dục nghệ thuật phổ thông, nghệ sĩ và trí thức không tham gia làm nghệ thuật phát triển cộng đồng là nguyên nhân tạo gu thẩm mỹ kiểu copy, rập khuôn. Mỗi người dân không có chính kiến thẩm mỹ nên chạy theo các mốt văn hóa của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và của người Mỹ gốc Phi. Có thể sắp tới sẽ khó nhận ra đặc điểm người Việt qua bề ngoài vì gần đây, hầu như toàn bộ quần áo thời trang ở Hà Nội được nhập lậu về từ Quảng Châu, nơi tập trung quần áo may sẵn toàn cầu hóa.

Một nền nghệ thuật ảnh hưởng tốt đến dân chúng được thể hiện bằng hình thức của từng người dân và hình thức này luôn cho gợi ý về xuất xứ địa phương của họ.

Những người phụ nữ vĩ đại cõng nóc nhà của mình như một tác phẩm performance


Và còn vĩ đại hơn khi họ hạnh phúc thưởng thức bát phở giá 1 nghìn đồng thế này, huyện Simakai, Lào Kai (2006)

Cái được gọi là thành tựu trong luồng của 20 năm qua là 5 cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc, và 15 trại sáng tác điêu khắc quốc tế trong mười năm sau này. Ngoài ra không thể không kể đến hàng loạt tác phẩm hoành tráng xây lên thì dễ phá đi thì khó là các tượng đài cúng cụ. Thử hỏi dăm trăm cái huy chương, bằng khen, hàng ngàn tấn bê tông, đồng, sắt, tiêu tốn nhiều tỷ đồng ngân sách nhà nước, tất thảy đã đem lại sự tiên tiến nào cho đời sống thẩm mỹ của người Việt?

Thế mới gọi là:

Huy chương anh chế vung theo xuất
Tiền chùa, giải thưởng múa tay ban

Thành tựu của mỹ thuật đổi mới nói chung tác động đến đâu trong đời sống xã hội: mặt phố, nội thất, ăn mặc, giảng đường, truyền thông?

Đó là sự hỗn mang của bộ mặt thẩm mỹ đại chúng!

Cho đến hôm nay, mỗi chúng ta, hoặc cảm thấy bất nhẫn, hoặc tặc lưỡi bỏ qua khi hàng ngày mở mắt thấy những thứ khó nhìn. Tỉ dụ như mỗi lần đi qua Cung văn hóa Hữu nghị, qua vườn hoa Indira Gandhi thì lại phải tế nhị lé mắt đi chỗ khác bởi sự chễm chệ của những pho tượng lạc điệu. Kiến trúc dân dụng bị bỏ hoang, bằng mọi thứ văn hóa thị giác được nhận và bị nhận từ các loại phong kiến đế quốc và độc tài, hồn nhiên tô điểm cho thân phận thuộc địa lâu dài của mình trên mặt tiền nhà. Quy hoạch thẩm mỹ tổng thể vẫn bằng không, thành phố nhìn từ xa (sky line) rậm rì và lổm nhổm. Các công trình được các “đàn anh tặng” (như Bưu điện trung tâm Hà Nội, cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô…) nặng nề, xấu xí, lạc lõng và choảng nhau bôm bốp với kiến trúc truyền thống và thực dân. Vì “anh” có design cho nước Việt đẹp đâu mà cốt để đóng dấu lên mặt “thằng em” thôi!

*

Có người hỏi: chưa kịp tổng kết, đã vội sám hối là thế nào?

Xin thứ lỗi, nhưng chờ đến bao giờ? Với tình trạng thờ ơ, chậm dề dề của cơ chế hành chính, lý luận phê bình và giáo dục. Mọi động thái nghệ thuật phải chờ đến ít nhất sau 10 năm mới có một tín hiệu phản hồi từ cơ quan quản lý. Mà cũng toàn giọng chung chung không ra ngô cũng không ra khoai “cái này có vẻ không giống nghệ thuật” cái kia “tôi không hiểu”, hay “chúng tôi luôn ủng hộ” (trên thực tế thì không) “những dòng sông đều chảy” (ai chảy và chảy thế nào?)… Phải nhìn thẳng vào mặt trái của nó thôi!

Mặc dù Mỹ thuật Việt Nam đổi mới có tạo được sự chú ý nho nhỏ nào đó thì cũng chỉ là sự sáng nhấp nháy của vài cá nhân. Ngay cả giả dụ có cá nhân nào đó bật lên tầm thế giới cũng không giúp được cho cả nền nghệ thuật đất nước. Trong một thế giới mới, ta cần một môi trường hạ tầng đồng bộ, chuyên nghiệp thì mới có một nền mỹ thuật mạnh khỏe và tiên tiến được. Bản thân tiên tiến đã nội hàm bản sắc, vậy cứ tiên tiến đi rồi sẽ có bản sắc!

Tương lai xinh đẹp và phiêu lưu…, Mường Nhé – Điện Biên (2009)

Nếu còn tình trạng:

Nghệ khí vai trò hàng thứ yếu
Thìa đũa quốc xẻng mấy phần hơn

thì không khéo một thế hệ nghệ sĩ rất trẻ mới đang chợt lấp lánh sẽ lại nhanh chóng lụi tàn!

Thuốc đắng giã tật sự thật mất lòng,
thà trong mắt soi đèn lòng lo ngay ngáy,
còn hơn tự ru hời hỡi,
ăn bùa,
uống mê.

 

Hà Nội – 5. 2007

 

*

Bài liên quan:

– Mới chạy mà bình xăng đã cạn
– Cay cú chỉ càng làm lú lẫn

Ý kiến - Thảo luận

19:13 Friday,5.8.2011 Đăng bởi:  Em-co-y-kien
"Xăng có thể cạn,
Lốp có thể mòn,
Song
không bao giờ
bỏ xe chạy lấy người!"

Tinh thần đó của chú Lương chúng em xin ghi tạc và cố gắng học tập!
...xem tiếp
19:13 Friday,5.8.2011 Đăng bởi:  Em-co-y-kien
"Xăng có thể cạn,
Lốp có thể mòn,
Song
không bao giờ
bỏ xe chạy lấy người!"

Tinh thần đó của chú Lương chúng em xin ghi tạc và cố gắng học tập! 
10:02 Friday,5.8.2011 Đăng bởi:  Phạm Huy Thông
Bupbe ơi, bạn hỏi thì tớ trả lời chung chung thế này: Tại vì tính tớ lắm mồm, hay phát biểu trên Soi nên có những ý kiến vênh với quan điểm của các đồng nghiệp khác. Về cơ bản, tớ không muốn ai giận tớ cả, chỉ mong mọi người coi đó là một sự tranh luận hướng tới làm giàu cho môi trường nghệ thuật thôi. Kính chuyển.
...xem tiếp
10:02 Friday,5.8.2011 Đăng bởi:  Phạm Huy Thông
Bupbe ơi, bạn hỏi thì tớ trả lời chung chung thế này: Tại vì tính tớ lắm mồm, hay phát biểu trên Soi nên có những ý kiến vênh với quan điểm của các đồng nghiệp khác. Về cơ bản, tớ không muốn ai giận tớ cả, chỉ mong mọi người coi đó là một sự tranh luận hướng tới làm giàu cho môi trường nghệ thuật thôi. Kính chuyển. 

(Đề nghị gõ chữ tiếng Việt có dấu và không viết tắt)

Tìm kiếm

Tiêu đề
Nội dung
Tác giả